Cập nhật nội dung chi tiết về Know Who You Are And Who You Want To Be mới nhất trên website Duanseadragon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài đã đăng trên tạp chí THẾ GIỚI MỚI-thành viên NXB GIÁO DỤC VIỆT- NAM, số 958 ( 31/10/2011) và 959 ( 7/11/2011)
Hiện nay nhiều bạn trẻ trước khi kết hôn thường
tìm đến lời tư vấn của các…thày bói. Bậc làm cha mẹ,
ông hà tất quan tâm đến hạnh phúc của con cháu nên
các vị chưa tìm đến hỏi thày thì chưa yên tâm. Vậy các
thày xem xét như thế nào và lời phán của thày liệu có
đáng tin? xin mạo muội đôi lời về vấn đề này hy vọng
giúp các bạn trẻ và những ai quan tâm đến vấn đề hôn
có thêm thông tin dể rộng đường xét chọn đối tượng
của mình hoặc của người thân.
. Phạm-Đắc-Tùy
Hôn nhân là sự kiện trọng đại, là bước ngoặt lịch sử trong đời một con người. Cuộc sống tương lai có hạnh phúc hay không đối với một gia đình phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn vợ gả chồng. Chất lượng cuộc sống của một con người, của một gia đình lại có ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Vì vậy, vấn đề kết hôn của hai người còn là vấn đề của cả xã hội. Với ý nghĩa to lớn như thế nên trước khi nên vợ nên chồng, mọi người đều phải qua công đoạn tìm hiểu. Kể cả ai đó có mối tình “ xét đánh” thì việc xem xét “ tốc độ” để hiểu về nhau cũng không thể thiếu đươc. Ai cũng muốn có đời sống hôn nhân tốt đẹp và không muốn phạm sai lầm trong quá trình tìm bạn đời của mình. Sự hiểu mình và hiểu người ( đối tượng) trước khi cưới sẽ giúp làm giảm, tránh tai họa trong tương lai. Câu nói của Tôn Tử: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi” ( Biết mình, biết người trăm trận không nguy) đem ứng dụng vào hôn nhân cũng không sai. Nhưng làm cách nào để hiểu biết về đối tượng chính xác và đầy đủ cả hiện tại, quá khứ và tương lai sau này? Những gì biết được về đối tượng bằng trực quan là những thông tin thời quá khứ và hiện tại. Còn sau này, khi “ ván đã đóng thuyền” thí đời sống vợ chồng sẽ ra sao? Cân hỏi này phải nhờ cậy vào “thầy bói” ( từ dân dã chỉ những người làm dự đoán) Như vậy việc làm của các “thầy bói” là tìm kiếm thông tin để giúp ích cho con người và xã hội. GS,TS Trần Ngọc Thêm từng viết: “ Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học và dự đoán xã hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.” ( Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam-nxh tp Hồ Chí Minh,1997, tr.195). Đáng phê phán là những ai do phương pháp sai, trình độ thấp, thái độ “chặt chém” nên đã có lời phán rất sai lầm làm tổn hại cho thân chủ, gây tai tiếng cho người làm dự đoán chân chính. Hiện nay, lý thuyết về dự đoán in trên sách báo rất nhiều. Các thầy bói đủ loại, đủ kiểu mọc lên “như nấm mùa mưa”. Tài liệu nhiều, thày cũng lắm nhưng phương pháp dự đoán về hôn nhân thì đa phần các thầy vẫn tuân theo lề lối của người xưa. Đó là so sánh năm sinh của hai người ( xem tuổi).
TUỔI NÀO HỢP TUỔI NÀO ?
Những câu hỏi na ná như vậy rất phổ biến, được các thân chủ đặt ra yêu cầu thầy bói trả lời. Phương pháp soi xét của các thầy cũng chỉ xoay quanh năm sinh của hai người. Cụ thể, các phương pháp đó là so năm sinh theo can và chi, so năm sinh quy ra mệnh nạp âm, so năm sinh quy ra cung sinh và cung phi. Chúng ta cùng khảo sát các phương pháp này để xem liệu có đủ cơ sở để tin cậy.
1- Quan hệ can và chi.
Bất kỳ người nào cũng sinh ra trong một năm cụ thể. Năm sinh đó chuyển sang lịch can chi có hai chữ: chữ thứ nhất thuộc về hệ thiên can, chữ thứ hai thuộc về hệ địa chi. Người ta quen gọi là can và chi. Ví như ai sinh năm 2011 đều có năm sinh là Tân Mão, Tân là can, Mão là chi. Các can và chi đều có thuộc tính âm dương ngũ hành. Chúng đều có đặc tính: sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại…Các thầy chỉ căn cứ vào can chi năm sinh của hai người nam-nữ với mối quan hệ sinh, khắc, xung, hợp…của chúng mà phán rằng: tuổi này lấy tuổi này là hợp, là tốt hay xấu…Ví dụ: hỏi người sinh năm 1984 lấy người sinh năm 1990 có được không? Thầy xét: 1984 là Giáp Tý, 1990 là Canh Ngọ, can Giáp khắc can Canh, chi Tý xung chi Ngọ đã phạm vào “thiên khắc địa xung”, rất xấu, không lấy nhau đươc! Tử vi là một môn phái dự đoán ở nước ta đã hình thành từ lâu đời, cho tới nay nhiều người vẫn tin dùng. Trên thị trường sách hiện nay có cuốn Dự đoán và luận giải tương lai ( La Hán Coong-Hi Di, nxb Hải Phòng). Nội dung của cuốn sách chính là môn tử vi. Tử vi dựa vào năm, tháng, ngày và giờ sinh của một người để lập thành lá số. Can chi của năm sinh chỉ là một thành phần để lập ra các dữ liệu, định ra các vòng sao để an vào 12 cung của lá số. Từ đó, thẹo nguyên tắc nhất định mà tìm ra các thông tin về hôn nhân. Vậy thì căn cứ vào can chi năm sinh của hai người mà nói rằng hôn nhân của họ tốt hay xấu là không đúng. Trang 351 cuốn sách nêu trên viết: “ Xét can chi năm sinh: hai chữ can và chi đứng với nhau không khác gì hai thành phần của một gia đình, như gốc và ngọn của một cái cây. Gia đình có trong ấm ngoài êm, hòa hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau thì không hưng vượng”. Câu này Tử vi bảo rằng can chi năm sinh là biểu thị về gia đình, không phải về hôn nhân.. Dự đoán theo Tứ trụ cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Thiệu Vĩ Hoa là nhà dự đoán nổi tiếng nhất Trung Quốc hiện đại. Sách của ông từng là giáo trình giảng dạy của các trường đại học, trường Đảng Trung ương của Trung Quốc. Cuốn Dự đoán theo Tứ Trụ của ông đã được nxb Văn hóa-Thông tin Hà-Nội dịch và ấn hành năm 1996, tái bản lần thứ 3 năm 2002. Môn Tứ Trụ đi sâu vào mối quan hệ của các cạn, các chi của 4 trụ, của các đại vận, các tiểu vận và lưu niên, kết hợp các thần, sát theo các nguyên tắc nhất định để tìm ra nhiều thông tin. Can và chi của năm sinh để xem xét, dự đoán về bố mẹ của thân chủ. Còn hôn nhân của họ phải tìm xét ở chi của trụ ngày sinh ( có trụ năm sinh, trụ tháng sinh, trụ ngày sinh và trụ giờ sinh nên gọi là tứ trụ-bốn mốc thời gian). Trong cuốn sách này, Thiệu Vĩ Hoa viết: “Nếu can chi của năm sinh tương khắc nhau thì bất lợi cho cha mẹ, đại loại như Nhâm Ngọ, Giáp Thân, can khắc chi thì không lợi cho mẹ, chi khắc can thì không lợi cho cha”. Chúng ta không bàn về luận điểm này đúng hay sai mà chỉ thấy rằng: can chi năm sinh không bàn về hôn nhân.Năm 1993, nxb Văn hóa đã dịch và ấn hành cuốn:Chu Dịch với dự đoán học của Thiệu Vĩ Hoa. Đây là môn dự đoán theo quẻ và hào của quẻ lấy cơ sở từ Chu Dịch, từ can chi năm sinh, tháng sinh, ngày, giờ sinh chuyển đổi thành các con số. Theo quy tắc nhất định, các số quy chuyển thành các quẻ của Chu Dịch. Một quẻ kép được hình thành từ hai quẻ đơn là quẻ dụng và quẻ thể. Mối quan hệ này sẽ cho biết tình trạng hôn nhân của một người. Chỉ riêng can chi của năm sinh thì không nói lên điều gì. Phần dự đoán theo các hào của quẻ thì can chi năm sinh cũng chỉ là một thành phần tạo nên con số. Lúc dự đoán, nó chỉ là một căn cứ thứ yếu để tìm ra các thông tin. Nếu xét riêng thì nó vô nghĩa. Bộ môn dự đoán theo Bát tự Hà lạc cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Nhà văn Xuân Cang dã viết cuốn:Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người ( NXB Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2004) Từ các can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh chuyển đổi thành các con số của Hà Đồ và Lạc Thư rồi quy thành các quẻ của Kinh Dịch, dựa vào lời của quẻ và lời của các hào trong Chu Dịch để tìm ra các thông tin. Nội dung bàn tới của cuốn sách này chủ yếu là tính cách, khuynh hướng hoạt động nghề nghiệp. Họ không bàn về hôn nhân. Qua các môn phái dự đoán căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh đang thịnh hành ở nước ta, với các sách của các tác giả nổi tiếng nêu trên, có thể rút ra kết luận: can chi năm sinh không thể cho biết thông tin về hôn nhân của một con người. Vậy các thầy chỉ so tuổi can chi năm sinh của hai người mà phán rằng họ lấy nhau là tốt hay xấu thì thật sai lầm .
2- Mệnh nạp âm
Từ can chi năm sinh, người ta quy thành các hành cụ thể của ngũ hành. Hai năm liền nhau thuộc về một hành. Ví dụ:ai sinh năm 1978 và 1979 đều là Hỏa trên trời. Tứ trụ gọi là mệnh nạp âm. Tử vi gọi là hành của mệnh ( hay mạng). Có 5 hành là thủy, mộc, hỏa, thổ và kim. Cũng là hỏa nhưng hỏa ở các năm khác nhau thì không như nhau. Ví như hai năm 1978-1979 là Hỏa trên trời, còn mệnh hỏa của người sinh năm 1964 và 1965 lại là Hỏa đèn thờ (xem bảng 1). Với các hành khác cũng có sự khác biệt như vậy.
Bảng 1:Bảng Nạp âm
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Giáp Tý
Ất Sửu
Kim
giữa biển
Bính Tý
Đinh Sửu
Thủy
dưới khe
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Hỏa thu
lôi
Canh Tý
Tân Sửu
Thổ trên
tường
Nhâm Tý
Quý Sửu
Mộc cây
dâu
Bính Dần
Đinh Mão
Hỏa trong
lò
Mậu Dần
Kỷ Sửu
Thổ
trường
thành
Canh Dần
Tân Mão
Mộc tùng
bách
Nhâm Dần
Quý Mão
Kim vàng
dát
Giáp Dần
Ất Mão
Thủy khe
lớn
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Mộc
rừng
xanh
Canh Thìn
Tân Tỵ
Kim
trong
tnến
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Thủy
trường
lưu
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Hỏa
đèn thờ
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Thổ
Trong
cát
Canh Ngọ
Tân Mùi
Thổ bên
đường
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Mộc dương
liễu
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Kim
Trong
cát
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Thủy
thiên
hà
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Hỏa trên
trời
Nhâm Thân
Quý Dậu
Kim mũi
kiếm
Giáp Thân
Ất Dậu
Thủy
Trong
suối
Bính Thân
Đinh Dậu
Hỏa
dưới
núi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Thổ ở
bãi rộng
Canh Thân
Tân Dậu
Mộc cây
lựu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Hỏa đầu
núi
Bính Tuất
Đinh Hợi
Thổ nền
nhà
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Mộc
Bình
địa
Canh Tuất
Tân Hợi
Kim ở
trâm thoa
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Thủy
đại hải
Người ta dựa vào hành của mệnh nạp âm hai người, theo nguyên tắc tương sinh tương khắc của ngũ hành mà phán bảo hôn nhân của họ là hợp ( tốt) hay không hợp( xấu). Ví dụ: người sinh năm Kỷ Mùi ( 1979) kết duyên với người sinh năm Kỷ Dậu ( 1969) là lửa trên trời kết hợp với Thổ ở bãi rộng thì đó là “ sự kết hợp hữu ích, làm khô rắn đất, là hình ảnh đem lại hạnh phúc lâu bền cho nhau”. ( Dự đoán và luận giải tương lai-trang 423). Tử vi cho rằng như vậy. Còn Tứ Trụ thì viết: “ Căn cứ theo nguyên tắc gì để Nạp âm ngũ hành? Người xưa có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là điều khó hiểu .” ( Thiệu Vĩ Hoa-sdd-tr 272). Nguồn gốc thì lờ mờ, bản chất thì gượng ép, khó chấp nhận. Nhìn vào bảng nạp âm, ta chỉ thấy một can và một chi hợp lại đã thành một hành. Vậy can chi đó là tháng sinh, là ngày sinh, là giờ sinh cũng thuộc hành đó chứ không riêng của năm sinh. Các đơn vị thời gian theo hệ can chi đều bình đẳng. Ví như Tân Mão là Mộc tùng bách thì không chỉ riêng năm Tân Mão mà tháng Tân Mão, ngày Tân Mão và giờ Tân Mão đều là Mộc tùng bách. Cuốn Lịch vạn niên ( NXB Văn hóa dân tộc-1997) đã ghi rõ hành của mỗi ngày.Các ngày Tân Mão ở đây đều ghi là hành mộc. Vậy nếu xét đoán hôn nhân của hai người theo mệnh nạp âm phải xét cả bốn mệnh nạp âm của người này quan hệ với bốn mệnh nạp âm của người kia.chứ không chỉ xét riêng mệnh nạp âm của năm sinh.Tình hình sẽ phức tạp và bế tắc không làm được. Phương pháp so mệnh Nạp âm là rất phổ biến vì nó có nguồn gốc từ môn Tử vi-bộ môn đã có ở nước ta từ rất lâu và lưu lại đến ngày nay.Từ trang 415-432 của cuốn sách đại diên cho Tử vi nêu trên đã ghi cụ thể sự phối hợp mệnh của hai người. Nhưng chính cuốn này lại viết: “ Hành của mệnh là tài năng, tính chất của bản thân theo tính chất của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hành mộc thì bác ái, văn chương, xét xử…”( trang 345). Vậy mệnh Nạp âm không dùng để xét về hôn nhân.Tử vi đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trong các cuốn sách của Thiệu Vĩ Hoa nêu trên, tác giả chỉ giới thiệu mệnh Nạp âm ở phần lý luận chung. Lý luân ứng dụng vào dự đoán đều không thấy dùng tới. Nhà văn Xuân Cang viết: “ Nạp âm trong toán Hà Lạc còn gọi là mệnh sử dụng rất đắc lực trong bảng năm hành tương ứng của quẻ ( còn gọi là ngũ hành đặc quái), chỉ ra tính người và những nét lớn trong số phận con người rất ứng nghiệm”( Sdd-trang 29). Vậy là với Hà Lác thì mệnh nạp âm cũng không giúp gì trong việc tìm kiếm thông tin về hôn nhân. Qua các luận điểm nêu trên đủ để khẳng định: xét hôn nhân của hai người bằng cách so sánh mệnh Nạp âm của họ là sai lầm.
3-Cung phi ( thuật phong thủy gọi là mệnh quái)
Không biết căn cứ vào đâu mà người xưa áp đặt mỗi người có một cung phi tùy theo năm sinh của họ. Các cung phi này chính là bát quái: càn, khảm,cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài.( xem bảng 2).
Bảng 2: Cung phi
Số của nam
1
9
8
7
6
5
4
3
2
Cung phi
Khảm
Khôn
Chấn
Tốn
Trung cung
Càn
Đoài
Tốn
Ly
Cung sinh
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Ngũ
Lục
Thất
Bát
Cửu
Số của nữ
6
7
8
9
1
2
3
4
5
Cách dùng bảng: lấy số của năm sinh cộng lại, được bao nhiêu chia cho 9, số dư đem đối chiếu với bảng 2 sẽ đươc cung phi của năm sinh.Nếu tổng chia hết cho 9, không còn dư thì lấy luôn số 9. Nếu tổng nhỏ hơn 9 thì lấy tổng đó để đối chiếu. Nếu số dư là 6 thì nam có cung phi là Khôn, nữ có cung phi là Cấn. Ví dụ: nam sinh 1980 ta có: (1+9+8+0):9 =2, không còn dư, xem bảng ta có cung phi là Khôn. Ví dụ nữ sinh 1985 ta tính: (1+9+8+5):9 = 2dư 5. Xem bảng ta được cung phi là Ly.Người ta xét quan hệ hai cung phi của hai người để kết luận hôn nhân của họ là tốt hay xấu, hợp hay không hợp (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự kết hợp giữa các cung phi
Sinh khí
Ngũ quỷ
Diên niên
Lục sát
Họa hại
Thiên y
Tuyệt mệnh
Phục vị
Càn
đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Các quan hệ cho 4 kết quả tốt là: sinh khí, diên niên, thiên y và phục vị, trong đó sinh khí là tốt nhất. Có 4 loại xấu là: tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát và họa hại, trong đó tuyệt mệnh là xấu nhất. Ví dụ nam sinh 1985 có cung phi là Càn mà lấy nữ sinh 1985 có cung phi là Ly. Càn gặp Ly là tuyệt mệnh-chết người. Vậy mà trong dân gian có câu “Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn” (!?) Sự kết hợp cung phi để cho kết quả tốt, xấu này có nguồn gốc từ phái Bát Trạch của thuật phong thủy. Phái Bát Trạch có nguồn gốc từ Trung-Quốc đã du nhập vào nước ta hàng trăm năm và rất thịnh hành hiện nay.Tổ sư của phái này là Đường Nhất Hạnh. Lý thuyết cơ bản của nó là quan hệ mệnh quái (cung phi) chủ nhà với hướng nhà ( có sách viết là sơn nhà), thường gọi là : mệnh- trạch tương phối. Sự tương phối này cho kết quả tốt hay xấu như nêu trên. Khi làm nhà các chủ nhà cứ theo quy tắc này mà chọn hướng nhà hoặc nơi đặt cổng, cửa, bàn thờ, giường ngủ…Ví dụ: nam sinh 1960 có mệnh quái Tốn nên chọn làm nhà hướng Bắc ( khảm) là tốt nhất. Vì Tốn với Khảm tạo thành sinh khí. Từ quan hệ người- nhà của phong thủy chuyển sang quan hệ người- người là khó chấp nhận vì người là đơn nguyên có tình cảm, tư duy và luôn luôn biến động. Còn nhà ( hướng hay sơn) chỉ là khái niệm chỉ một đơn nguyên bất động, vô tri vô giác.Hơn nữa trong thuật phong thủy, đại sư Thẩm Trúc Nhưng (1847-?), nhà phong thủy nổi tiếng nhất Trung –Hoa thời cận đại đã tinh thông tất cả các môn phái phong thủy trước khi thành danh ở phái Huyền Không. Với phái Bát Trạch, đại sư họ Thẩm có nhận xét: đó là ngụy pháp.( Thẩm thị Huyền Không học- NXB Thời đại 2009,trang 466). Mối quan hệ người-nhà trong phong thủy là giả thì mối quan hệ người-người trong hôn nhân không thể cho kết quả đúng đắn. Nghĩa là xét hôn nhân hai người theo cung phi sẽ cho kết quả sai.
4-Cung sinh
Còn có cách xét đoán hôn nhân theo cung sinh của hai người. Mỗi người có một cung sinh theo năm sinh của mình, giống như cung phi, có 8 loại cung sinh là 8 quẻ đơn ( Bátquái). Cách tìm cung sinh theo bảng 4 và 5.
Bảng 4: Cung sinh của tuổi sinh năm dương.
Can
Chi
Giáp
Bính
Mậu
Canh
Nhâm
Tý
Chấn
Cấn
Càn
Càn
Chấn
Dần
Cấn
Khảm
Khảm
Cấn
Càn
Thìn
Tốn
Khảm
Đoài
Chấn
Khảm
Ngọ
Ly
Càn
Chấn
Ly
Ly
Thân
Khôn
Khôn
Cấn
Khôn
Khôn
Tuất
Càn
Tốn
Tốn
Khảm
Đoài
Bảng 5-Cung sinh của tuổi sinh năm âm.
Can
Chi
Ất
Đinh
Kỷ
Tân
Quý
Sửu
Tốn
Ly
Đoài
Đoài
Tốn
Mão
Ly
Càn
Khôn
Ly
Ly
Tỵ
Đoài
Khôn
Cấn
Tốn
Khôn
Mùi
Khảm
Đoài
Tốn
Khảm
Đoài
Dậu
Chấn
Chấn
Ly
Càn
Chấn
Hợi
Đoài
Cấn
Cấn
Khôn
Cấn
Cách tìm: Người sinh năm âm hay năm dương thì cả nam hay nữ đều có cùng cung sinh. Ví dụ: sinh năm 1961 ( Tân Sửu) thì nam và nữ có cung sinh là Đoài, còn ai sinh năm 1984 ( Giáp Tý) sẽ có cung sinh là Chấn. Kết quả so sánh cung sinh của hai người cũng như so sánh hai cung phi. Bốn loại tốt và 4 loại xấu ( bảng 3). Ví dụ: quý vị nào hỏi: con trai tôi sinh 1980 – Canh Thân nếu lấy cô sinh 1991-Tân Mùi thì có hợp không? Thầy bói xét:Canh Thân có cung sinh là Khôn, Tân Mùi có cung sinh là Khảm, Khảm-Khôn tạo thành tuyệt mệnh- chết người, nên không hợp, không lấy nhau được! Ta thấy cách so cung sinh cũng như cách so cung phi đều theo lối của phong thủy Bát Trạch và đều là ngụy pháp. Các phép so tuổi nêu trên tự nó đã bộc lộ sự sai lầm. Ngoài ra chúng còn có chung các bất cập khác khiến ai cả tin cũng phải băn khoăn nghi ngờ. Sự bất cập đó là:
– Không thống nhất kết quả giữa các phương pháp: Cùng một năm sinh mà có các dữ liệu khác nhau. Ví như nam sinh năm 1982-Nhâm Tuất: mệnh Nạp âm là Thủy đại hải; cung phi: LY, cung sinh: Đoài. Ly là hỏa, Đoài là kim. Một năm Nhâm Tuất-1982 cho tới 3 dữ liệu khác nhau đến mức khắc nhau ( thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim) thì biết tính sao? Hoặc là không thể tin vào cái nào; hoặc ai đó cứ nhắm mắt tin thì cũng chỉ chọn đúng có một, còn sai hai ( đúng chiếm tỉ lệ 1/3).
– Xét trên thực tế: Một người có hạnh phúc lứa đôi khi họ cảm nhận đươc ở người kia những gì khiến họ thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau bởi nó chịu chi phối của nhiều yếu tố: giới tính, tuổi, tính cách, sức khỏe, tinh thần, hoàn cảnh sống…Nếu ta tin rằng so tuổi để xác định hôn nhân sẽ cho kết quả đúng thì phải tin: tất cả mọi người sinh ra trong cùng một năm sẽ có nhu cầu chọn bạn đời có cùng đặc điểm và cùng năm sinh. Ví dụ: khoảng 2,2 triệu người sinh trong năm 2010 ở nước ta khi lớn lên sẽ có mong muốn tìm bạn đời giống nhau. Nếu xét nạp âm và can chi thì nhu cầu này còn giống nhu cầu của các ông, các cụ sinh ra từ các năm Canh Dần đã qua: 1950, 1890…và các cháu chắt có tuổi Canh Dần sau này: 2070, 2130…Ai tin như vậy là mê tín đến mức mù quáng. Tới đây chúng ta có thể thống nhất đi tới kết luận: dự đoán về hôn nhân không cần xem tuổi.
Know Who You Are And Who You Want To Be
Bài đã đăng trên tạp chí THẾ GIỚI MỚI-thành viên NXB GIÁO DỤC VIỆT- NAM, số 958 ( 31/10/2011) và 959 ( 7/11/2011)
Hiện nay nhiều bạn trẻ trước khi kết hôn thường
tìm đến lời tư vấn của các…thày bói. Bậc làm cha mẹ,
ông hà tất quan tâm đến hạnh phúc của con cháu nên
các vị chưa tìm đến hỏi thày thì chưa yên tâm. Vậy các
thày xem xét như thế nào và lời phán của thày liệu có
đáng tin? xin mạo muội đôi lời về vấn đề này hy vọng
giúp các bạn trẻ và những ai quan tâm đến vấn đề hôn
có thêm thông tin dể rộng đường xét chọn đối tượng
của mình hoặc của người thân.
. Phạm-Đắc-Tùy
Hôn nhân là sự kiện trọng đại, là bước ngoặt lịch sử trong đời một con người. Cuộc sống tương lai có hạnh phúc hay không đối với một gia đình phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn vợ gả chồng. Chất lượng cuộc sống của một con người, của một gia đình lại có ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Vì vậy, vấn đề kết hôn của hai người còn là vấn đề của cả xã hội. Với ý nghĩa to lớn như thế nên trước khi nên vợ nên chồng, mọi người đều phải qua công đoạn tìm hiểu. Kể cả ai đó có mối tình “ xét đánh” thì việc xem xét “ tốc độ” để hiểu về nhau cũng không thể thiếu đươc. Ai cũng muốn có đời sống hôn nhân tốt đẹp và không muốn phạm sai lầm trong quá trình tìm bạn đời của mình. Sự hiểu mình và hiểu người ( đối tượng) trước khi cưới sẽ giúp làm giảm, tránh tai họa trong tương lai. Câu nói của Tôn Tử: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi” ( Biết mình, biết người trăm trận không nguy) đem ứng dụng vào hôn nhân cũng không sai. Nhưng làm cách nào để hiểu biết về đối tượng chính xác và đầy đủ cả hiện tại, quá khứ và tương lai sau này? Những gì biết được về đối tượng bằng trực quan là những thông tin thời quá khứ và hiện tại. Còn sau này, khi “ ván đã đóng thuyền” thí đời sống vợ chồng sẽ ra sao? Cân hỏi này phải nhờ cậy vào “thầy bói” ( từ dân dã chỉ những người làm dự đoán) Như vậy việc làm của các “thầy bói” là tìm kiếm thông tin để giúp ích cho con người và xã hội. GS,TS Trần Ngọc Thêm từng viết: “ Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học và dự đoán xã hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.” ( Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam-nxh tp Hồ Chí Minh,1997, tr.195). Đáng phê phán là những ai do phương pháp sai, trình độ thấp, thái độ “chặt chém” nên đã có lời phán rất sai lầm làm tổn hại cho thân chủ, gây tai tiếng cho người làm dự đoán chân chính. Hiện nay, lý thuyết về dự đoán in trên sách báo rất nhiều. Các thầy bói đủ loại, đủ kiểu mọc lên “như nấm mùa mưa”. Tài liệu nhiều, thày cũng lắm nhưng phương pháp dự đoán về hôn nhân thì đa phần các thầy vẫn tuân theo lề lối của người xưa. Đó là so sánh năm sinh của hai người ( xem tuổi).
TUỔI NÀO HỢP TUỔI NÀO ?
Những câu hỏi na ná như vậy rất phổ biến, được các thân chủ đặt ra yêu cầu thầy bói trả lời. Phương pháp soi xét của các thầy cũng chỉ xoay quanh năm sinh của hai người. Cụ thể, các phương pháp đó là so năm sinh theo can và chi, so năm sinh quy ra mệnh nạp âm, so năm sinh quy ra cung sinh và cung phi. Chúng ta cùng khảo sát các phương pháp này để xem liệu có đủ cơ sở để tin cậy.
1- Quan hệ can và chi.
Bất kỳ người nào cũng sinh ra trong một năm cụ thể. Năm sinh đó chuyển sang lịch can chi có hai chữ: chữ thứ nhất thuộc về hệ thiên can, chữ thứ hai thuộc về hệ địa chi. Người ta quen gọi là can và chi. Ví như ai sinh năm 2011 đều có năm sinh là Tân Mão, Tân là can, Mão là chi. Các can và chi đều có thuộc tính âm dương ngũ hành. Chúng đều có đặc tính: sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại…Các thầy chỉ căn cứ vào can chi năm sinh của hai người nam-nữ với mối quan hệ sinh, khắc, xung, hợp…của chúng mà phán rằng: tuổi này lấy tuổi này là hợp, là tốt hay xấu…Ví dụ: hỏi người sinh năm 1984 lấy người sinh năm 1990 có được không? Thầy xét: 1984 là Giáp Tý, 1990 là Canh Ngọ, can Giáp khắc can Canh, chi Tý xung chi Ngọ đã phạm vào “thiên khắc địa xung”, rất xấu, không lấy nhau đươc! Tử vi là một môn phái dự đoán ở nước ta đã hình thành từ lâu đời, cho tới nay nhiều người vẫn tin dùng. Trên thị trường sách hiện nay có cuốn Dự đoán và luận giải tương lai ( La Hán Coong-Hi Di, nxb Hải Phòng). Nội dung của cuốn sách chính là môn tử vi. Tử vi dựa vào năm, tháng, ngày và giờ sinh của một người để lập thành lá số. Can chi của năm sinh chỉ là một thành phần để lập ra các dữ liệu, định ra các vòng sao để an vào 12 cung của lá số. Từ đó, thẹo nguyên tắc nhất định mà tìm ra các thông tin về hôn nhân. Vậy thì căn cứ vào can chi năm sinh của hai người mà nói rằng hôn nhân của họ tốt hay xấu là không đúng. Trang 351 cuốn sách nêu trên viết: “ Xét can chi năm sinh: hai chữ can và chi đứng với nhau không khác gì hai thành phần của một gia đình, như gốc và ngọn của một cái cây. Gia đình có trong ấm ngoài êm, hòa hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau thì không hưng vượng”. Câu này Tử vi bảo rằng can chi năm sinh là biểu thị về gia đình, không phải về hôn nhân.. Dự đoán theo Tứ trụ cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Thiệu Vĩ Hoa là nhà dự đoán nổi tiếng nhất Trung Quốc hiện đại. Sách của ông từng là giáo trình giảng dạy của các trường đại học, trường Đảng Trung ương của Trung Quốc. Cuốn Dự đoán theo Tứ Trụ của ông đã được nxb Văn hóa-Thông tin Hà-Nội dịch và ấn hành năm 1996, tái bản lần thứ 3 năm 2002. Môn Tứ Trụ đi sâu vào mối quan hệ của các cạn, các chi của 4 trụ, của các đại vận, các tiểu vận và lưu niên, kết hợp các thần, sát theo các nguyên tắc nhất định để tìm ra nhiều thông tin. Can và chi của năm sinh để xem xét, dự đoán về bố mẹ của thân chủ. Còn hôn nhân của họ phải tìm xét ở chi của trụ ngày sinh ( có trụ năm sinh, trụ tháng sinh, trụ ngày sinh và trụ giờ sinh nên gọi là tứ trụ-bốn mốc thời gian). Trong cuốn sách này, Thiệu Vĩ Hoa viết: “Nếu can chi của năm sinh tương khắc nhau thì bất lợi cho cha mẹ, đại loại như Nhâm Ngọ, Giáp Thân, can khắc chi thì không lợi cho mẹ, chi khắc can thì không lợi cho cha”. Chúng ta không bàn về luận điểm này đúng hay sai mà chỉ thấy rằng: can chi năm sinh không bàn về hôn nhân.Năm 1993, nxb Văn hóa đã dịch và ấn hành cuốn:Chu Dịch với dự đoán học của Thiệu Vĩ Hoa. Đây là môn dự đoán theo quẻ và hào của quẻ lấy cơ sở từ Chu Dịch, từ can chi năm sinh, tháng sinh, ngày, giờ sinh chuyển đổi thành các con số. Theo quy tắc nhất định, các số quy chuyển thành các quẻ của Chu Dịch. Một quẻ kép được hình thành từ hai quẻ đơn là quẻ dụng và quẻ thể. Mối quan hệ này sẽ cho biết tình trạng hôn nhân của một người. Chỉ riêng can chi của năm sinh thì không nói lên điều gì. Phần dự đoán theo các hào của quẻ thì can chi năm sinh cũng chỉ là một thành phần tạo nên con số. Lúc dự đoán, nó chỉ là một căn cứ thứ yếu để tìm ra các thông tin. Nếu xét riêng thì nó vô nghĩa. Bộ môn dự đoán theo Bát tự Hà lạc cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Nhà văn Xuân Cang dã viết cuốn:Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người ( NXB Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2004) Từ các can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh chuyển đổi thành các con số của Hà Đồ và Lạc Thư rồi quy thành các quẻ của Kinh Dịch, dựa vào lời của quẻ và lời của các hào trong Chu Dịch để tìm ra các thông tin. Nội dung bàn tới của cuốn sách này chủ yếu là tính cách, khuynh hướng hoạt động nghề nghiệp. Họ không bàn về hôn nhân. Qua các môn phái dự đoán căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh đang thịnh hành ở nước ta, với các sách của các tác giả nổi tiếng nêu trên, có thể rút ra kết luận: can chi năm sinh không thể cho biết thông tin về hôn nhân của một con người. Vậy các thầy chỉ so tuổi can chi năm sinh của hai người mà phán rằng họ lấy nhau là tốt hay xấu thì thật sai lầm .
2- Mệnh nạp âm
Từ can chi năm sinh, người ta quy thành các hành cụ thể của ngũ hành. Hai năm liền nhau thuộc về một hành. Ví dụ:ai sinh năm 1978 và 1979 đều là Hỏa trên trời. Tứ trụ gọi là mệnh nạp âm. Tử vi gọi là hành của mệnh ( hay mạng). Có 5 hành là thủy, mộc, hỏa, thổ và kim. Cũng là hỏa nhưng hỏa ở các năm khác nhau thì không như nhau. Ví như hai năm 1978-1979 là Hỏa trên trời, còn mệnh hỏa của người sinh năm 1964 và 1965 lại là Hỏa đèn thờ (xem bảng 1). Với các hành khác cũng có sự khác biệt như vậy.
Bảng 1:Bảng Nạp âm
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Giáp Tý
Ất Sửu
Kim
giữa biển
Bính Tý
Đinh Sửu
Thủy
dưới khe
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Hỏa thu
lôi
Canh Tý
Tân Sửu
Thổ trên
tường
Nhâm Tý
Quý Sửu
Mộc cây
dâu
Bính Dần
Đinh Mão
Hỏa trong
lò
Mậu Dần
Kỷ Sửu
Thổ
trường
thành
Canh Dần
Tân Mão
Mộc tùng
bách
Nhâm Dần
Quý Mão
Kim vàng
dát
Giáp Dần
Ất Mão
Thủy khe
lớn
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Mộc
rừng
xanh
Canh Thìn
Tân Tỵ
Kim
trong
tnến
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Thủy
trường
lưu
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Hỏa
đèn thờ
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Thổ
Trong
cát
Canh Ngọ
Tân Mùi
Thổ bên
đường
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Mộc dương
liễu
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Kim
Trong
cát
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Thủy
thiên
hà
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Hỏa trên
trời
Nhâm Thân
Quý Dậu
Kim mũi
kiếm
Giáp Thân
Ất Dậu
Thủy
Trong
suối
Bính Thân
Đinh Dậu
Hỏa
dưới
núi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Thổ ở
bãi rộng
Canh Thân
Tân Dậu
Mộc cây
lựu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Hỏa đầu
núi
Bính Tuất
Đinh Hợi
Thổ nền
nhà
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Mộc
Bình
địa
Canh Tuất
Tân Hợi
Kim ở
trâm thoa
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Thủy
đại hải
Người ta dựa vào hành của mệnh nạp âm hai người, theo nguyên tắc tương sinh tương khắc của ngũ hành mà phán bảo hôn nhân của họ là hợp ( tốt) hay không hợp( xấu). Ví dụ: người sinh năm Kỷ Mùi ( 1979) kết duyên với người sinh năm Kỷ Dậu ( 1969) là lửa trên trời kết hợp với Thổ ở bãi rộng thì đó là “ sự kết hợp hữu ích, làm khô rắn đất, là hình ảnh đem lại hạnh phúc lâu bền cho nhau”. ( Dự đoán và luận giải tương lai-trang 423). Tử vi cho rằng như vậy. Còn Tứ Trụ thì viết: “ Căn cứ theo nguyên tắc gì để Nạp âm ngũ hành? Người xưa có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là điều khó hiểu .” ( Thiệu Vĩ Hoa-sdd-tr 272). Nguồn gốc thì lờ mờ, bản chất thì gượng ép, khó chấp nhận. Nhìn vào bảng nạp âm, ta chỉ thấy một can và một chi hợp lại đã thành một hành. Vậy can chi đó là tháng sinh, là ngày sinh, là giờ sinh cũng thuộc hành đó chứ không riêng của năm sinh. Các đơn vị thời gian theo hệ can chi đều bình đẳng. Ví như Tân Mão là Mộc tùng bách thì không chỉ riêng năm Tân Mão mà tháng Tân Mão, ngày Tân Mão và giờ Tân Mão đều là Mộc tùng bách. Cuốn Lịch vạn niên ( NXB Văn hóa dân tộc-1997) đã ghi rõ hành của mỗi ngày.Các ngày Tân Mão ở đây đều ghi là hành mộc. Vậy nếu xét đoán hôn nhân của hai người theo mệnh nạp âm phải xét cả bốn mệnh nạp âm của người này quan hệ với bốn mệnh nạp âm của người kia.chứ không chỉ xét riêng mệnh nạp âm của năm sinh.Tình hình sẽ phức tạp và bế tắc không làm được. Phương pháp so mệnh Nạp âm là rất phổ biến vì nó có nguồn gốc từ môn Tử vi-bộ môn đã có ở nước ta từ rất lâu và lưu lại đến ngày nay.Từ trang 415-432 của cuốn sách đại diên cho Tử vi nêu trên đã ghi cụ thể sự phối hợp mệnh của hai người. Nhưng chính cuốn này lại viết: “ Hành của mệnh là tài năng, tính chất của bản thân theo tính chất của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hành mộc thì bác ái, văn chương, xét xử…”( trang 345). Vậy mệnh Nạp âm không dùng để xét về hôn nhân.Tử vi đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trong các cuốn sách của Thiệu Vĩ Hoa nêu trên, tác giả chỉ giới thiệu mệnh Nạp âm ở phần lý luận chung. Lý luân ứng dụng vào dự đoán đều không thấy dùng tới. Nhà văn Xuân Cang viết: “ Nạp âm trong toán Hà Lạc còn gọi là mệnh sử dụng rất đắc lực trong bảng năm hành tương ứng của quẻ ( còn gọi là ngũ hành đặc quái), chỉ ra tính người và những nét lớn trong số phận con người rất ứng nghiệm”( Sdd-trang 29). Vậy là với Hà Lác thì mệnh nạp âm cũng không giúp gì trong việc tìm kiếm thông tin về hôn nhân. Qua các luận điểm nêu trên đủ để khẳng định: xét hôn nhân của hai người bằng cách so sánh mệnh Nạp âm của họ là sai lầm.
3-Cung phi ( thuật phong thủy gọi là mệnh quái)
Không biết căn cứ vào đâu mà người xưa áp đặt mỗi người có một cung phi tùy theo năm sinh của họ. Các cung phi này chính là bát quái: càn, khảm,cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài.( xem bảng 2).
Bảng 2: Cung phi
Số của nam
1
9
8
7
6
5
4
3
2
Cung phi
Khảm
Khôn
Chấn
Tốn
Trung cung
Càn
Đoài
Tốn
Ly
Cung sinh
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Ngũ
Lục
Thất
Bát
Cửu
Số của nữ
6
7
8
9
1
2
3
4
5
Cách dùng bảng: lấy số của năm sinh cộng lại, được bao nhiêu chia cho 9, số dư đem đối chiếu với bảng 2 sẽ đươc cung phi của năm sinh.Nếu tổng chia hết cho 9, không còn dư thì lấy luôn số 9. Nếu tổng nhỏ hơn 9 thì lấy tổng đó để đối chiếu. Nếu số dư là 6 thì nam có cung phi là Khôn, nữ có cung phi là Cấn. Ví dụ: nam sinh 1980 ta có: (1+9+8+0):9 =2, không còn dư, xem bảng ta có cung phi là Khôn. Ví dụ nữ sinh 1985 ta tính: (1+9+8+5):9 = 2dư 5. Xem bảng ta được cung phi là Ly.Người ta xét quan hệ hai cung phi của hai người để kết luận hôn nhân của họ là tốt hay xấu, hợp hay không hợp (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự kết hợp giữa các cung phi
Sinh khí
Ngũ quỷ
Diên niên
Lục sát
Họa hại
Thiên y
Tuyệt mệnh
Phục vị
Càn
đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Các quan hệ cho 4 kết quả tốt là: sinh khí, diên niên, thiên y và phục vị, trong đó sinh khí là tốt nhất. Có 4 loại xấu là: tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát và họa hại, trong đó tuyệt mệnh là xấu nhất. Ví dụ nam sinh 1985 có cung phi là Càn mà lấy nữ sinh 1985 có cung phi là Ly. Càn gặp Ly là tuyệt mệnh-chết người. Vậy mà trong dân gian có câu “Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn” (!?) Sự kết hợp cung phi để cho kết quả tốt, xấu này có nguồn gốc từ phái Bát Trạch của thuật phong thủy. Phái Bát Trạch có nguồn gốc từ Trung-Quốc đã du nhập vào nước ta hàng trăm năm và rất thịnh hành hiện nay.Tổ sư của phái này là Đường Nhất Hạnh. Lý thuyết cơ bản của nó là quan hệ mệnh quái (cung phi) chủ nhà với hướng nhà ( có sách viết là sơn nhà), thường gọi là : mệnh- trạch tương phối. Sự tương phối này cho kết quả tốt hay xấu như nêu trên. Khi làm nhà các chủ nhà cứ theo quy tắc này mà chọn hướng nhà hoặc nơi đặt cổng, cửa, bàn thờ, giường ngủ…Ví dụ: nam sinh 1960 có mệnh quái Tốn nên chọn làm nhà hướng Bắc ( khảm) là tốt nhất. Vì Tốn với Khảm tạo thành sinh khí. Từ quan hệ người- nhà của phong thủy chuyển sang quan hệ người- người là khó chấp nhận vì người là đơn nguyên có tình cảm, tư duy và luôn luôn biến động. Còn nhà ( hướng hay sơn) chỉ là khái niệm chỉ một đơn nguyên bất động, vô tri vô giác.Hơn nữa trong thuật phong thủy, đại sư Thẩm Trúc Nhưng (1847-?), nhà phong thủy nổi tiếng nhất Trung –Hoa thời cận đại đã tinh thông tất cả các môn phái phong thủy trước khi thành danh ở phái Huyền Không. Với phái Bát Trạch, đại sư họ Thẩm có nhận xét: đó là ngụy pháp.( Thẩm thị Huyền Không học- NXB Thời đại 2009,trang 466). Mối quan hệ người-nhà trong phong thủy là giả thì mối quan hệ người-người trong hôn nhân không thể cho kết quả đúng đắn. Nghĩa là xét hôn nhân hai người theo cung phi sẽ cho kết quả sai.
4-Cung sinh
Còn có cách xét đoán hôn nhân theo cung sinh của hai người. Mỗi người có một cung sinh theo năm sinh của mình, giống như cung phi, có 8 loại cung sinh là 8 quẻ đơn ( Bátquái). Cách tìm cung sinh theo bảng 4 và 5.
Bảng 4: Cung sinh của tuổi sinh năm dương.
Can
Chi
Giáp
Bính
Mậu
Canh
Nhâm
Tý
Chấn
Cấn
Càn
Càn
Chấn
Dần
Cấn
Khảm
Khảm
Cấn
Càn
Thìn
Tốn
Khảm
Đoài
Chấn
Khảm
Ngọ
Ly
Càn
Chấn
Ly
Ly
Thân
Khôn
Khôn
Cấn
Khôn
Khôn
Tuất
Càn
Tốn
Tốn
Khảm
Đoài
Bảng 5-Cung sinh của tuổi sinh năm âm.
Can
Chi
Ất
Đinh
Kỷ
Tân
Quý
Sửu
Tốn
Ly
Đoài
Đoài
Tốn
Mão
Ly
Càn
Khôn
Ly
Ly
Tỵ
Đoài
Khôn
Cấn
Tốn
Khôn
Mùi
Khảm
Đoài
Tốn
Khảm
Đoài
Dậu
Chấn
Chấn
Ly
Càn
Chấn
Hợi
Đoài
Cấn
Cấn
Khôn
Cấn
Cách tìm: Người sinh năm âm hay năm dương thì cả nam hay nữ đều có cùng cung sinh. Ví dụ: sinh năm 1961 ( Tân Sửu) thì nam và nữ có cung sinh là Đoài, còn ai sinh năm 1984 ( Giáp Tý) sẽ có cung sinh là Chấn. Kết quả so sánh cung sinh của hai người cũng như so sánh hai cung phi. Bốn loại tốt và 4 loại xấu ( bảng 3). Ví dụ: quý vị nào hỏi: con trai tôi sinh 1980 – Canh Thân nếu lấy cô sinh 1991-Tân Mùi thì có hợp không? Thầy bói xét:Canh Thân có cung sinh là Khôn, Tân Mùi có cung sinh là Khảm, Khảm-Khôn tạo thành tuyệt mệnh- chết người, nên không hợp, không lấy nhau được! Ta thấy cách so cung sinh cũng như cách so cung phi đều theo lối của phong thủy Bát Trạch và đều là ngụy pháp. Các phép so tuổi nêu trên tự nó đã bộc lộ sự sai lầm. Ngoài ra chúng còn có chung các bất cập khác khiến ai cả tin cũng phải băn khoăn nghi ngờ. Sự bất cập đó là:
– Không thống nhất kết quả giữa các phương pháp: Cùng một năm sinh mà có các dữ liệu khác nhau. Ví như nam sinh năm 1982-Nhâm Tuất: mệnh Nạp âm là Thủy đại hải; cung phi: LY, cung sinh: Đoài. Ly là hỏa, Đoài là kim. Một năm Nhâm Tuất-1982 cho tới 3 dữ liệu khác nhau đến mức khắc nhau ( thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim) thì biết tính sao? Hoặc là không thể tin vào cái nào; hoặc ai đó cứ nhắm mắt tin thì cũng chỉ chọn đúng có một, còn sai hai ( đúng chiếm tỉ lệ 1/3).
– Xét trên thực tế: Một người có hạnh phúc lứa đôi khi họ cảm nhận đươc ở người kia những gì khiến họ thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau bởi nó chịu chi phối của nhiều yếu tố: giới tính, tuổi, tính cách, sức khỏe, tinh thần, hoàn cảnh sống…Nếu ta tin rằng so tuổi để xác định hôn nhân sẽ cho kết quả đúng thì phải tin: tất cả mọi người sinh ra trong cùng một năm sẽ có nhu cầu chọn bạn đời có cùng đặc điểm và cùng năm sinh. Ví dụ: khoảng 2,2 triệu người sinh trong năm 2010 ở nước ta khi lớn lên sẽ có mong muốn tìm bạn đời giống nhau. Nếu xét nạp âm và can chi thì nhu cầu này còn giống nhu cầu của các ông, các cụ sinh ra từ các năm Canh Dần đã qua: 1950, 1890…và các cháu chắt có tuổi Canh Dần sau này: 2070, 2130…Ai tin như vậy là mê tín đến mức mù quáng. Tới đây chúng ta có thể thống nhất đi tới kết luận: dự đoán về hôn nhân không cần xem tuổi.
Know Who You Are And Who You Want To Be
Bài đã đăng trên tạp chí THẾ GIỚI MỚI-thành viên NXB GIÁO DỤC VIỆT- NAM, số 958 ( 31/10/2011) và 959 ( 7/11/2011)
Hiện nay nhiều bạn trẻ trước khi kết hôn thường
tìm đến lời tư vấn của các…thày bói. Bậc làm cha mẹ,
ông hà tất quan tâm đến hạnh phúc của con cháu nên
các vị chưa tìm đến hỏi thày thì chưa yên tâm. Vậy các
thày xem xét như thế nào và lời phán của thày liệu có
đáng tin? xin mạo muội đôi lời về vấn đề này hy vọng
giúp các bạn trẻ và những ai quan tâm đến vấn đề hôn
có thêm thông tin dể rộng đường xét chọn đối tượng
của mình hoặc của người thân.
. Phạm-Đắc-Tùy
Hôn nhân là sự kiện trọng đại, là bước ngoặt lịch sử trong đời một con người. Cuộc sống tương lai có hạnh phúc hay không đối với một gia đình phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn vợ gả chồng. Chất lượng cuộc sống của một con người, của một gia đình lại có ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Vì vậy, vấn đề kết hôn của hai người còn là vấn đề của cả xã hội. Với ý nghĩa to lớn như thế nên trước khi nên vợ nên chồng, mọi người đều phải qua công đoạn tìm hiểu. Kể cả ai đó có mối tình “ xét đánh” thì việc xem xét “ tốc độ” để hiểu về nhau cũng không thể thiếu đươc. Ai cũng muốn có đời sống hôn nhân tốt đẹp và không muốn phạm sai lầm trong quá trình tìm bạn đời của mình. Sự hiểu mình và hiểu người ( đối tượng) trước khi cưới sẽ giúp làm giảm, tránh tai họa trong tương lai. Câu nói của Tôn Tử: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi” ( Biết mình, biết người trăm trận không nguy) đem ứng dụng vào hôn nhân cũng không sai. Nhưng làm cách nào để hiểu biết về đối tượng chính xác và đầy đủ cả hiện tại, quá khứ và tương lai sau này? Những gì biết được về đối tượng bằng trực quan là những thông tin thời quá khứ và hiện tại. Còn sau này, khi “ ván đã đóng thuyền” thí đời sống vợ chồng sẽ ra sao? Cân hỏi này phải nhờ cậy vào “thầy bói” ( từ dân dã chỉ những người làm dự đoán) Như vậy việc làm của các “thầy bói” là tìm kiếm thông tin để giúp ích cho con người và xã hội. GS,TS Trần Ngọc Thêm từng viết: “ Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học và dự đoán xã hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.” ( Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam-nxh tp Hồ Chí Minh,1997, tr.195). Đáng phê phán là những ai do phương pháp sai, trình độ thấp, thái độ “chặt chém” nên đã có lời phán rất sai lầm làm tổn hại cho thân chủ, gây tai tiếng cho người làm dự đoán chân chính. Hiện nay, lý thuyết về dự đoán in trên sách báo rất nhiều. Các thầy bói đủ loại, đủ kiểu mọc lên “như nấm mùa mưa”. Tài liệu nhiều, thày cũng lắm nhưng phương pháp dự đoán về hôn nhân thì đa phần các thầy vẫn tuân theo lề lối của người xưa. Đó là so sánh năm sinh của hai người ( xem tuổi).
TUỔI NÀO HỢP TUỔI NÀO ?
Những câu hỏi na ná như vậy rất phổ biến, được các thân chủ đặt ra yêu cầu thầy bói trả lời. Phương pháp soi xét của các thầy cũng chỉ xoay quanh năm sinh của hai người. Cụ thể, các phương pháp đó là so năm sinh theo can và chi, so năm sinh quy ra mệnh nạp âm, so năm sinh quy ra cung sinh và cung phi. Chúng ta cùng khảo sát các phương pháp này để xem liệu có đủ cơ sở để tin cậy.
1- Quan hệ can và chi.
Bất kỳ người nào cũng sinh ra trong một năm cụ thể. Năm sinh đó chuyển sang lịch can chi có hai chữ: chữ thứ nhất thuộc về hệ thiên can, chữ thứ hai thuộc về hệ địa chi. Người ta quen gọi là can và chi. Ví như ai sinh năm 2011 đều có năm sinh là Tân Mão, Tân là can, Mão là chi. Các can và chi đều có thuộc tính âm dương ngũ hành. Chúng đều có đặc tính: sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại…Các thầy chỉ căn cứ vào can chi năm sinh của hai người nam-nữ với mối quan hệ sinh, khắc, xung, hợp…của chúng mà phán rằng: tuổi này lấy tuổi này là hợp, là tốt hay xấu…Ví dụ: hỏi người sinh năm 1984 lấy người sinh năm 1990 có được không? Thầy xét: 1984 là Giáp Tý, 1990 là Canh Ngọ, can Giáp khắc can Canh, chi Tý xung chi Ngọ đã phạm vào “thiên khắc địa xung”, rất xấu, không lấy nhau đươc! Tử vi là một môn phái dự đoán ở nước ta đã hình thành từ lâu đời, cho tới nay nhiều người vẫn tin dùng. Trên thị trường sách hiện nay có cuốn Dự đoán và luận giải tương lai ( La Hán Coong-Hi Di, nxb Hải Phòng). Nội dung của cuốn sách chính là môn tử vi. Tử vi dựa vào năm, tháng, ngày và giờ sinh của một người để lập thành lá số. Can chi của năm sinh chỉ là một thành phần để lập ra các dữ liệu, định ra các vòng sao để an vào 12 cung của lá số. Từ đó, thẹo nguyên tắc nhất định mà tìm ra các thông tin về hôn nhân. Vậy thì căn cứ vào can chi năm sinh của hai người mà nói rằng hôn nhân của họ tốt hay xấu là không đúng. Trang 351 cuốn sách nêu trên viết: “ Xét can chi năm sinh: hai chữ can và chi đứng với nhau không khác gì hai thành phần của một gia đình, như gốc và ngọn của một cái cây. Gia đình có trong ấm ngoài êm, hòa hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau thì không hưng vượng”. Câu này Tử vi bảo rằng can chi năm sinh là biểu thị về gia đình, không phải về hôn nhân.. Dự đoán theo Tứ trụ cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Thiệu Vĩ Hoa là nhà dự đoán nổi tiếng nhất Trung Quốc hiện đại. Sách của ông từng là giáo trình giảng dạy của các trường đại học, trường Đảng Trung ương của Trung Quốc. Cuốn Dự đoán theo Tứ Trụ của ông đã được nxb Văn hóa-Thông tin Hà-Nội dịch và ấn hành năm 1996, tái bản lần thứ 3 năm 2002. Môn Tứ Trụ đi sâu vào mối quan hệ của các cạn, các chi của 4 trụ, của các đại vận, các tiểu vận và lưu niên, kết hợp các thần, sát theo các nguyên tắc nhất định để tìm ra nhiều thông tin. Can và chi của năm sinh để xem xét, dự đoán về bố mẹ của thân chủ. Còn hôn nhân của họ phải tìm xét ở chi của trụ ngày sinh ( có trụ năm sinh, trụ tháng sinh, trụ ngày sinh và trụ giờ sinh nên gọi là tứ trụ-bốn mốc thời gian). Trong cuốn sách này, Thiệu Vĩ Hoa viết: “Nếu can chi của năm sinh tương khắc nhau thì bất lợi cho cha mẹ, đại loại như Nhâm Ngọ, Giáp Thân, can khắc chi thì không lợi cho mẹ, chi khắc can thì không lợi cho cha”. Chúng ta không bàn về luận điểm này đúng hay sai mà chỉ thấy rằng: can chi năm sinh không bàn về hôn nhân.Năm 1993, nxb Văn hóa đã dịch và ấn hành cuốn:Chu Dịch với dự đoán học của Thiệu Vĩ Hoa. Đây là môn dự đoán theo quẻ và hào của quẻ lấy cơ sở từ Chu Dịch, từ can chi năm sinh, tháng sinh, ngày, giờ sinh chuyển đổi thành các con số. Theo quy tắc nhất định, các số quy chuyển thành các quẻ của Chu Dịch. Một quẻ kép được hình thành từ hai quẻ đơn là quẻ dụng và quẻ thể. Mối quan hệ này sẽ cho biết tình trạng hôn nhân của một người. Chỉ riêng can chi của năm sinh thì không nói lên điều gì. Phần dự đoán theo các hào của quẻ thì can chi năm sinh cũng chỉ là một thành phần tạo nên con số. Lúc dự đoán, nó chỉ là một căn cứ thứ yếu để tìm ra các thông tin. Nếu xét riêng thì nó vô nghĩa. Bộ môn dự đoán theo Bát tự Hà lạc cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Nhà văn Xuân Cang dã viết cuốn:Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người ( NXB Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2004) Từ các can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh chuyển đổi thành các con số của Hà Đồ và Lạc Thư rồi quy thành các quẻ của Kinh Dịch, dựa vào lời của quẻ và lời của các hào trong Chu Dịch để tìm ra các thông tin. Nội dung bàn tới của cuốn sách này chủ yếu là tính cách, khuynh hướng hoạt động nghề nghiệp. Họ không bàn về hôn nhân. Qua các môn phái dự đoán căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh đang thịnh hành ở nước ta, với các sách của các tác giả nổi tiếng nêu trên, có thể rút ra kết luận: can chi năm sinh không thể cho biết thông tin về hôn nhân của một con người. Vậy các thầy chỉ so tuổi can chi năm sinh của hai người mà phán rằng họ lấy nhau là tốt hay xấu thì thật sai lầm .
2- Mệnh nạp âm
Từ can chi năm sinh, người ta quy thành các hành cụ thể của ngũ hành. Hai năm liền nhau thuộc về một hành. Ví dụ:ai sinh năm 1978 và 1979 đều là Hỏa trên trời. Tứ trụ gọi là mệnh nạp âm. Tử vi gọi là hành của mệnh ( hay mạng). Có 5 hành là thủy, mộc, hỏa, thổ và kim. Cũng là hỏa nhưng hỏa ở các năm khác nhau thì không như nhau. Ví như hai năm 1978-1979 là Hỏa trên trời, còn mệnh hỏa của người sinh năm 1964 và 1965 lại là Hỏa đèn thờ (xem bảng 1). Với các hành khác cũng có sự khác biệt như vậy.
Bảng 1:Bảng Nạp âm
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Giáp Tý
Ất Sửu
Kim
giữa biển
Bính Tý
Đinh Sửu
Thủy
dưới khe
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Hỏa thu
lôi
Canh Tý
Tân Sửu
Thổ trên
tường
Nhâm Tý
Quý Sửu
Mộc cây
dâu
Bính Dần
Đinh Mão
Hỏa trong
lò
Mậu Dần
Kỷ Sửu
Thổ
trường
thành
Canh Dần
Tân Mão
Mộc tùng
bách
Nhâm Dần
Quý Mão
Kim vàng
dát
Giáp Dần
Ất Mão
Thủy khe
lớn
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Mộc
rừng
xanh
Canh Thìn
Tân Tỵ
Kim
trong
tnến
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Thủy
trường
lưu
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Hỏa
đèn thờ
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Thổ
Trong
cát
Canh Ngọ
Tân Mùi
Thổ bên
đường
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Mộc dương
liễu
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Kim
Trong
cát
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Thủy
thiên
hà
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Hỏa trên
trời
Nhâm Thân
Quý Dậu
Kim mũi
kiếm
Giáp Thân
Ất Dậu
Thủy
Trong
suối
Bính Thân
Đinh Dậu
Hỏa
dưới
núi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Thổ ở
bãi rộng
Canh Thân
Tân Dậu
Mộc cây
lựu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Hỏa đầu
núi
Bính Tuất
Đinh Hợi
Thổ nền
nhà
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Mộc
Bình
địa
Canh Tuất
Tân Hợi
Kim ở
trâm thoa
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Thủy
đại hải
Người ta dựa vào hành của mệnh nạp âm hai người, theo nguyên tắc tương sinh tương khắc của ngũ hành mà phán bảo hôn nhân của họ là hợp ( tốt) hay không hợp( xấu). Ví dụ: người sinh năm Kỷ Mùi ( 1979) kết duyên với người sinh năm Kỷ Dậu ( 1969) là lửa trên trời kết hợp với Thổ ở bãi rộng thì đó là “ sự kết hợp hữu ích, làm khô rắn đất, là hình ảnh đem lại hạnh phúc lâu bền cho nhau”. ( Dự đoán và luận giải tương lai-trang 423). Tử vi cho rằng như vậy. Còn Tứ Trụ thì viết: “ Căn cứ theo nguyên tắc gì để Nạp âm ngũ hành? Người xưa có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là điều khó hiểu .” ( Thiệu Vĩ Hoa-sdd-tr 272). Nguồn gốc thì lờ mờ, bản chất thì gượng ép, khó chấp nhận. Nhìn vào bảng nạp âm, ta chỉ thấy một can và một chi hợp lại đã thành một hành. Vậy can chi đó là tháng sinh, là ngày sinh, là giờ sinh cũng thuộc hành đó chứ không riêng của năm sinh. Các đơn vị thời gian theo hệ can chi đều bình đẳng. Ví như Tân Mão là Mộc tùng bách thì không chỉ riêng năm Tân Mão mà tháng Tân Mão, ngày Tân Mão và giờ Tân Mão đều là Mộc tùng bách. Cuốn Lịch vạn niên ( NXB Văn hóa dân tộc-1997) đã ghi rõ hành của mỗi ngày.Các ngày Tân Mão ở đây đều ghi là hành mộc. Vậy nếu xét đoán hôn nhân của hai người theo mệnh nạp âm phải xét cả bốn mệnh nạp âm của người này quan hệ với bốn mệnh nạp âm của người kia.chứ không chỉ xét riêng mệnh nạp âm của năm sinh.Tình hình sẽ phức tạp và bế tắc không làm được. Phương pháp so mệnh Nạp âm là rất phổ biến vì nó có nguồn gốc từ môn Tử vi-bộ môn đã có ở nước ta từ rất lâu và lưu lại đến ngày nay.Từ trang 415-432 của cuốn sách đại diên cho Tử vi nêu trên đã ghi cụ thể sự phối hợp mệnh của hai người. Nhưng chính cuốn này lại viết: “ Hành của mệnh là tài năng, tính chất của bản thân theo tính chất của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hành mộc thì bác ái, văn chương, xét xử…”( trang 345). Vậy mệnh Nạp âm không dùng để xét về hôn nhân.Tử vi đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trong các cuốn sách của Thiệu Vĩ Hoa nêu trên, tác giả chỉ giới thiệu mệnh Nạp âm ở phần lý luận chung. Lý luân ứng dụng vào dự đoán đều không thấy dùng tới. Nhà văn Xuân Cang viết: “ Nạp âm trong toán Hà Lạc còn gọi là mệnh sử dụng rất đắc lực trong bảng năm hành tương ứng của quẻ ( còn gọi là ngũ hành đặc quái), chỉ ra tính người và những nét lớn trong số phận con người rất ứng nghiệm”( Sdd-trang 29). Vậy là với Hà Lác thì mệnh nạp âm cũng không giúp gì trong việc tìm kiếm thông tin về hôn nhân. Qua các luận điểm nêu trên đủ để khẳng định: xét hôn nhân của hai người bằng cách so sánh mệnh Nạp âm của họ là sai lầm.
3-Cung phi ( thuật phong thủy gọi là mệnh quái)
Không biết căn cứ vào đâu mà người xưa áp đặt mỗi người có một cung phi tùy theo năm sinh của họ. Các cung phi này chính là bát quái: càn, khảm,cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài.( xem bảng 2).
Bảng 2: Cung phi
Số của nam
1
9
8
7
6
5
4
3
2
Cung phi
Khảm
Khôn
Chấn
Tốn
Trung cung
Càn
Đoài
Tốn
Ly
Cung sinh
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Ngũ
Lục
Thất
Bát
Cửu
Số của nữ
6
7
8
9
1
2
3
4
5
Cách dùng bảng: lấy số của năm sinh cộng lại, được bao nhiêu chia cho 9, số dư đem đối chiếu với bảng 2 sẽ đươc cung phi của năm sinh.Nếu tổng chia hết cho 9, không còn dư thì lấy luôn số 9. Nếu tổng nhỏ hơn 9 thì lấy tổng đó để đối chiếu. Nếu số dư là 6 thì nam có cung phi là Khôn, nữ có cung phi là Cấn. Ví dụ: nam sinh 1980 ta có: (1+9+8+0):9 =2, không còn dư, xem bảng ta có cung phi là Khôn. Ví dụ nữ sinh 1985 ta tính: (1+9+8+5):9 = 2dư 5. Xem bảng ta được cung phi là Ly.Người ta xét quan hệ hai cung phi của hai người để kết luận hôn nhân của họ là tốt hay xấu, hợp hay không hợp (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự kết hợp giữa các cung phi
Sinh khí
Ngũ quỷ
Diên niên
Lục sát
Họa hại
Thiên y
Tuyệt mệnh
Phục vị
Càn
đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Các quan hệ cho 4 kết quả tốt là: sinh khí, diên niên, thiên y và phục vị, trong đó sinh khí là tốt nhất. Có 4 loại xấu là: tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát và họa hại, trong đó tuyệt mệnh là xấu nhất. Ví dụ nam sinh 1985 có cung phi là Càn mà lấy nữ sinh 1985 có cung phi là Ly. Càn gặp Ly là tuyệt mệnh-chết người. Vậy mà trong dân gian có câu “Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn” (!?) Sự kết hợp cung phi để cho kết quả tốt, xấu này có nguồn gốc từ phái Bát Trạch của thuật phong thủy. Phái Bát Trạch có nguồn gốc từ Trung-Quốc đã du nhập vào nước ta hàng trăm năm và rất thịnh hành hiện nay.Tổ sư của phái này là Đường Nhất Hạnh. Lý thuyết cơ bản của nó là quan hệ mệnh quái (cung phi) chủ nhà với hướng nhà ( có sách viết là sơn nhà), thường gọi là : mệnh- trạch tương phối. Sự tương phối này cho kết quả tốt hay xấu như nêu trên. Khi làm nhà các chủ nhà cứ theo quy tắc này mà chọn hướng nhà hoặc nơi đặt cổng, cửa, bàn thờ, giường ngủ…Ví dụ: nam sinh 1960 có mệnh quái Tốn nên chọn làm nhà hướng Bắc ( khảm) là tốt nhất. Vì Tốn với Khảm tạo thành sinh khí. Từ quan hệ người- nhà của phong thủy chuyển sang quan hệ người- người là khó chấp nhận vì người là đơn nguyên có tình cảm, tư duy và luôn luôn biến động. Còn nhà ( hướng hay sơn) chỉ là khái niệm chỉ một đơn nguyên bất động, vô tri vô giác.Hơn nữa trong thuật phong thủy, đại sư Thẩm Trúc Nhưng (1847-?), nhà phong thủy nổi tiếng nhất Trung –Hoa thời cận đại đã tinh thông tất cả các môn phái phong thủy trước khi thành danh ở phái Huyền Không. Với phái Bát Trạch, đại sư họ Thẩm có nhận xét: đó là ngụy pháp.( Thẩm thị Huyền Không học- NXB Thời đại 2009,trang 466). Mối quan hệ người-nhà trong phong thủy là giả thì mối quan hệ người-người trong hôn nhân không thể cho kết quả đúng đắn. Nghĩa là xét hôn nhân hai người theo cung phi sẽ cho kết quả sai.
4-Cung sinh
Còn có cách xét đoán hôn nhân theo cung sinh của hai người. Mỗi người có một cung sinh theo năm sinh của mình, giống như cung phi, có 8 loại cung sinh là 8 quẻ đơn ( Bátquái). Cách tìm cung sinh theo bảng 4 và 5.
Bảng 4: Cung sinh của tuổi sinh năm dương.
Can
Chi
Giáp
Bính
Mậu
Canh
Nhâm
Tý
Chấn
Cấn
Càn
Càn
Chấn
Dần
Cấn
Khảm
Khảm
Cấn
Càn
Thìn
Tốn
Khảm
Đoài
Chấn
Khảm
Ngọ
Ly
Càn
Chấn
Ly
Ly
Thân
Khôn
Khôn
Cấn
Khôn
Khôn
Tuất
Càn
Tốn
Tốn
Khảm
Đoài
Bảng 5-Cung sinh của tuổi sinh năm âm.
Can
Chi
Ất
Đinh
Kỷ
Tân
Quý
Sửu
Tốn
Ly
Đoài
Đoài
Tốn
Mão
Ly
Càn
Khôn
Ly
Ly
Tỵ
Đoài
Khôn
Cấn
Tốn
Khôn
Mùi
Khảm
Đoài
Tốn
Khảm
Đoài
Dậu
Chấn
Chấn
Ly
Càn
Chấn
Hợi
Đoài
Cấn
Cấn
Khôn
Cấn
Cách tìm: Người sinh năm âm hay năm dương thì cả nam hay nữ đều có cùng cung sinh. Ví dụ: sinh năm 1961 ( Tân Sửu) thì nam và nữ có cung sinh là Đoài, còn ai sinh năm 1984 ( Giáp Tý) sẽ có cung sinh là Chấn. Kết quả so sánh cung sinh của hai người cũng như so sánh hai cung phi. Bốn loại tốt và 4 loại xấu ( bảng 3). Ví dụ: quý vị nào hỏi: con trai tôi sinh 1980 – Canh Thân nếu lấy cô sinh 1991-Tân Mùi thì có hợp không? Thầy bói xét:Canh Thân có cung sinh là Khôn, Tân Mùi có cung sinh là Khảm, Khảm-Khôn tạo thành tuyệt mệnh- chết người, nên không hợp, không lấy nhau được! Ta thấy cách so cung sinh cũng như cách so cung phi đều theo lối của phong thủy Bát Trạch và đều là ngụy pháp. Các phép so tuổi nêu trên tự nó đã bộc lộ sự sai lầm. Ngoài ra chúng còn có chung các bất cập khác khiến ai cả tin cũng phải băn khoăn nghi ngờ. Sự bất cập đó là:
– Không thống nhất kết quả giữa các phương pháp: Cùng một năm sinh mà có các dữ liệu khác nhau. Ví như nam sinh năm 1982-Nhâm Tuất: mệnh Nạp âm là Thủy đại hải; cung phi: LY, cung sinh: Đoài. Ly là hỏa, Đoài là kim. Một năm Nhâm Tuất-1982 cho tới 3 dữ liệu khác nhau đến mức khắc nhau ( thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim) thì biết tính sao? Hoặc là không thể tin vào cái nào; hoặc ai đó cứ nhắm mắt tin thì cũng chỉ chọn đúng có một, còn sai hai ( đúng chiếm tỉ lệ 1/3).
– Xét trên thực tế: Một người có hạnh phúc lứa đôi khi họ cảm nhận đươc ở người kia những gì khiến họ thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau bởi nó chịu chi phối của nhiều yếu tố: giới tính, tuổi, tính cách, sức khỏe, tinh thần, hoàn cảnh sống…Nếu ta tin rằng so tuổi để xác định hôn nhân sẽ cho kết quả đúng thì phải tin: tất cả mọi người sinh ra trong cùng một năm sẽ có nhu cầu chọn bạn đời có cùng đặc điểm và cùng năm sinh. Ví dụ: khoảng 2,2 triệu người sinh trong năm 2010 ở nước ta khi lớn lên sẽ có mong muốn tìm bạn đời giống nhau. Nếu xét nạp âm và can chi thì nhu cầu này còn giống nhu cầu của các ông, các cụ sinh ra từ các năm Canh Dần đã qua: 1950, 1890…và các cháu chắt có tuổi Canh Dần sau này: 2070, 2130…Ai tin như vậy là mê tín đến mức mù quáng. Tới đây chúng ta có thể thống nhất đi tới kết luận: dự đoán về hôn nhân không cần xem tuổi.
Know Who You Are And Who You Want To Be
Bài đã đăng trên tạp chí THẾ GIỚI MỚI-thành viên NXB GIÁO DỤC VIỆT- NAM, số 958 ( 31/10/2011) và 959 ( 7/11/2011)
Hiện nay nhiều bạn trẻ trước khi kết hôn thường
tìm đến lời tư vấn của các…thày bói. Bậc làm cha mẹ,
ông hà tất quan tâm đến hạnh phúc của con cháu nên
các vị chưa tìm đến hỏi thày thì chưa yên tâm. Vậy các
thày xem xét như thế nào và lời phán của thày liệu có
đáng tin? xin mạo muội đôi lời về vấn đề này hy vọng
giúp các bạn trẻ và những ai quan tâm đến vấn đề hôn
có thêm thông tin dể rộng đường xét chọn đối tượng
của mình hoặc của người thân.
. Phạm-Đắc-Tùy
Hôn nhân là sự kiện trọng đại, là bước ngoặt lịch sử trong đời một con người. Cuộc sống tương lai có hạnh phúc hay không đối với một gia đình phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn vợ gả chồng. Chất lượng cuộc sống của một con người, của một gia đình lại có ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Vì vậy, vấn đề kết hôn của hai người còn là vấn đề của cả xã hội. Với ý nghĩa to lớn như thế nên trước khi nên vợ nên chồng, mọi người đều phải qua công đoạn tìm hiểu. Kể cả ai đó có mối tình “ xét đánh” thì việc xem xét “ tốc độ” để hiểu về nhau cũng không thể thiếu đươc. Ai cũng muốn có đời sống hôn nhân tốt đẹp và không muốn phạm sai lầm trong quá trình tìm bạn đời của mình. Sự hiểu mình và hiểu người ( đối tượng) trước khi cưới sẽ giúp làm giảm, tránh tai họa trong tương lai. Câu nói của Tôn Tử: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi” ( Biết mình, biết người trăm trận không nguy) đem ứng dụng vào hôn nhân cũng không sai. Nhưng làm cách nào để hiểu biết về đối tượng chính xác và đầy đủ cả hiện tại, quá khứ và tương lai sau này? Những gì biết được về đối tượng bằng trực quan là những thông tin thời quá khứ và hiện tại. Còn sau này, khi “ ván đã đóng thuyền” thí đời sống vợ chồng sẽ ra sao? Cân hỏi này phải nhờ cậy vào “thầy bói” ( từ dân dã chỉ những người làm dự đoán) Như vậy việc làm của các “thầy bói” là tìm kiếm thông tin để giúp ích cho con người và xã hội. GS,TS Trần Ngọc Thêm từng viết: “ Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học và dự đoán xã hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.” ( Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam-nxh tp Hồ Chí Minh,1997, tr.195). Đáng phê phán là những ai do phương pháp sai, trình độ thấp, thái độ “chặt chém” nên đã có lời phán rất sai lầm làm tổn hại cho thân chủ, gây tai tiếng cho người làm dự đoán chân chính. Hiện nay, lý thuyết về dự đoán in trên sách báo rất nhiều. Các thầy bói đủ loại, đủ kiểu mọc lên “như nấm mùa mưa”. Tài liệu nhiều, thày cũng lắm nhưng phương pháp dự đoán về hôn nhân thì đa phần các thầy vẫn tuân theo lề lối của người xưa. Đó là so sánh năm sinh của hai người ( xem tuổi).
TUỔI NÀO HỢP TUỔI NÀO ?
Những câu hỏi na ná như vậy rất phổ biến, được các thân chủ đặt ra yêu cầu thầy bói trả lời. Phương pháp soi xét của các thầy cũng chỉ xoay quanh năm sinh của hai người. Cụ thể, các phương pháp đó là so năm sinh theo can và chi, so năm sinh quy ra mệnh nạp âm, so năm sinh quy ra cung sinh và cung phi. Chúng ta cùng khảo sát các phương pháp này để xem liệu có đủ cơ sở để tin cậy.
1- Quan hệ can và chi.
Bất kỳ người nào cũng sinh ra trong một năm cụ thể. Năm sinh đó chuyển sang lịch can chi có hai chữ: chữ thứ nhất thuộc về hệ thiên can, chữ thứ hai thuộc về hệ địa chi. Người ta quen gọi là can và chi. Ví như ai sinh năm 2011 đều có năm sinh là Tân Mão, Tân là can, Mão là chi. Các can và chi đều có thuộc tính âm dương ngũ hành. Chúng đều có đặc tính: sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại…Các thầy chỉ căn cứ vào can chi năm sinh của hai người nam-nữ với mối quan hệ sinh, khắc, xung, hợp…của chúng mà phán rằng: tuổi này lấy tuổi này là hợp, là tốt hay xấu…Ví dụ: hỏi người sinh năm 1984 lấy người sinh năm 1990 có được không? Thầy xét: 1984 là Giáp Tý, 1990 là Canh Ngọ, can Giáp khắc can Canh, chi Tý xung chi Ngọ đã phạm vào “thiên khắc địa xung”, rất xấu, không lấy nhau đươc! Tử vi là một môn phái dự đoán ở nước ta đã hình thành từ lâu đời, cho tới nay nhiều người vẫn tin dùng. Trên thị trường sách hiện nay có cuốn Dự đoán và luận giải tương lai ( La Hán Coong-Hi Di, nxb Hải Phòng). Nội dung của cuốn sách chính là môn tử vi. Tử vi dựa vào năm, tháng, ngày và giờ sinh của một người để lập thành lá số. Can chi của năm sinh chỉ là một thành phần để lập ra các dữ liệu, định ra các vòng sao để an vào 12 cung của lá số. Từ đó, thẹo nguyên tắc nhất định mà tìm ra các thông tin về hôn nhân. Vậy thì căn cứ vào can chi năm sinh của hai người mà nói rằng hôn nhân của họ tốt hay xấu là không đúng. Trang 351 cuốn sách nêu trên viết: “ Xét can chi năm sinh: hai chữ can và chi đứng với nhau không khác gì hai thành phần của một gia đình, như gốc và ngọn của một cái cây. Gia đình có trong ấm ngoài êm, hòa hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau thì không hưng vượng”. Câu này Tử vi bảo rằng can chi năm sinh là biểu thị về gia đình, không phải về hôn nhân.. Dự đoán theo Tứ trụ cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Thiệu Vĩ Hoa là nhà dự đoán nổi tiếng nhất Trung Quốc hiện đại. Sách của ông từng là giáo trình giảng dạy của các trường đại học, trường Đảng Trung ương của Trung Quốc. Cuốn Dự đoán theo Tứ Trụ của ông đã được nxb Văn hóa-Thông tin Hà-Nội dịch và ấn hành năm 1996, tái bản lần thứ 3 năm 2002. Môn Tứ Trụ đi sâu vào mối quan hệ của các cạn, các chi của 4 trụ, của các đại vận, các tiểu vận và lưu niên, kết hợp các thần, sát theo các nguyên tắc nhất định để tìm ra nhiều thông tin. Can và chi của năm sinh để xem xét, dự đoán về bố mẹ của thân chủ. Còn hôn nhân của họ phải tìm xét ở chi của trụ ngày sinh ( có trụ năm sinh, trụ tháng sinh, trụ ngày sinh và trụ giờ sinh nên gọi là tứ trụ-bốn mốc thời gian). Trong cuốn sách này, Thiệu Vĩ Hoa viết: “Nếu can chi của năm sinh tương khắc nhau thì bất lợi cho cha mẹ, đại loại như Nhâm Ngọ, Giáp Thân, can khắc chi thì không lợi cho mẹ, chi khắc can thì không lợi cho cha”. Chúng ta không bàn về luận điểm này đúng hay sai mà chỉ thấy rằng: can chi năm sinh không bàn về hôn nhân.Năm 1993, nxb Văn hóa đã dịch và ấn hành cuốn:Chu Dịch với dự đoán học của Thiệu Vĩ Hoa. Đây là môn dự đoán theo quẻ và hào của quẻ lấy cơ sở từ Chu Dịch, từ can chi năm sinh, tháng sinh, ngày, giờ sinh chuyển đổi thành các con số. Theo quy tắc nhất định, các số quy chuyển thành các quẻ của Chu Dịch. Một quẻ kép được hình thành từ hai quẻ đơn là quẻ dụng và quẻ thể. Mối quan hệ này sẽ cho biết tình trạng hôn nhân của một người. Chỉ riêng can chi của năm sinh thì không nói lên điều gì. Phần dự đoán theo các hào của quẻ thì can chi năm sinh cũng chỉ là một thành phần tạo nên con số. Lúc dự đoán, nó chỉ là một căn cứ thứ yếu để tìm ra các thông tin. Nếu xét riêng thì nó vô nghĩa. Bộ môn dự đoán theo Bát tự Hà lạc cũng lấy năm, tháng, ngày và giờ sinh làm cơ sở. Nhà văn Xuân Cang dã viết cuốn:Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người ( NXB Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2004) Từ các can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh chuyển đổi thành các con số của Hà Đồ và Lạc Thư rồi quy thành các quẻ của Kinh Dịch, dựa vào lời của quẻ và lời của các hào trong Chu Dịch để tìm ra các thông tin. Nội dung bàn tới của cuốn sách này chủ yếu là tính cách, khuynh hướng hoạt động nghề nghiệp. Họ không bàn về hôn nhân. Qua các môn phái dự đoán căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh đang thịnh hành ở nước ta, với các sách của các tác giả nổi tiếng nêu trên, có thể rút ra kết luận: can chi năm sinh không thể cho biết thông tin về hôn nhân của một con người. Vậy các thầy chỉ so tuổi can chi năm sinh của hai người mà phán rằng họ lấy nhau là tốt hay xấu thì thật sai lầm .
2- Mệnh nạp âm
Từ can chi năm sinh, người ta quy thành các hành cụ thể của ngũ hành. Hai năm liền nhau thuộc về một hành. Ví dụ:ai sinh năm 1978 và 1979 đều là Hỏa trên trời. Tứ trụ gọi là mệnh nạp âm. Tử vi gọi là hành của mệnh ( hay mạng). Có 5 hành là thủy, mộc, hỏa, thổ và kim. Cũng là hỏa nhưng hỏa ở các năm khác nhau thì không như nhau. Ví như hai năm 1978-1979 là Hỏa trên trời, còn mệnh hỏa của người sinh năm 1964 và 1965 lại là Hỏa đèn thờ (xem bảng 1). Với các hành khác cũng có sự khác biệt như vậy.
Bảng 1:Bảng Nạp âm
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Năm
Mệnh
Giáp Tý
Ất Sửu
Kim
giữa biển
Bính Tý
Đinh Sửu
Thủy
dưới khe
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Hỏa thu
lôi
Canh Tý
Tân Sửu
Thổ trên
tường
Nhâm Tý
Quý Sửu
Mộc cây
dâu
Bính Dần
Đinh Mão
Hỏa trong
lò
Mậu Dần
Kỷ Sửu
Thổ
trường
thành
Canh Dần
Tân Mão
Mộc tùng
bách
Nhâm Dần
Quý Mão
Kim vàng
dát
Giáp Dần
Ất Mão
Thủy khe
lớn
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Mộc
rừng
xanh
Canh Thìn
Tân Tỵ
Kim
trong
tnến
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Thủy
trường
lưu
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Hỏa
đèn thờ
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Thổ
Trong
cát
Canh Ngọ
Tân Mùi
Thổ bên
đường
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Mộc dương
liễu
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Kim
Trong
cát
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Thủy
thiên
hà
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Hỏa trên
trời
Nhâm Thân
Quý Dậu
Kim mũi
kiếm
Giáp Thân
Ất Dậu
Thủy
Trong
suối
Bính Thân
Đinh Dậu
Hỏa
dưới
núi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Thổ ở
bãi rộng
Canh Thân
Tân Dậu
Mộc cây
lựu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Hỏa đầu
núi
Bính Tuất
Đinh Hợi
Thổ nền
nhà
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Mộc
Bình
địa
Canh Tuất
Tân Hợi
Kim ở
trâm thoa
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Thủy
đại hải
Người ta dựa vào hành của mệnh nạp âm hai người, theo nguyên tắc tương sinh tương khắc của ngũ hành mà phán bảo hôn nhân của họ là hợp ( tốt) hay không hợp( xấu). Ví dụ: người sinh năm Kỷ Mùi ( 1979) kết duyên với người sinh năm Kỷ Dậu ( 1969) là lửa trên trời kết hợp với Thổ ở bãi rộng thì đó là “ sự kết hợp hữu ích, làm khô rắn đất, là hình ảnh đem lại hạnh phúc lâu bền cho nhau”. ( Dự đoán và luận giải tương lai-trang 423). Tử vi cho rằng như vậy. Còn Tứ Trụ thì viết: “ Căn cứ theo nguyên tắc gì để Nạp âm ngũ hành? Người xưa có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là điều khó hiểu .” ( Thiệu Vĩ Hoa-sdd-tr 272). Nguồn gốc thì lờ mờ, bản chất thì gượng ép, khó chấp nhận. Nhìn vào bảng nạp âm, ta chỉ thấy một can và một chi hợp lại đã thành một hành. Vậy can chi đó là tháng sinh, là ngày sinh, là giờ sinh cũng thuộc hành đó chứ không riêng của năm sinh. Các đơn vị thời gian theo hệ can chi đều bình đẳng. Ví như Tân Mão là Mộc tùng bách thì không chỉ riêng năm Tân Mão mà tháng Tân Mão, ngày Tân Mão và giờ Tân Mão đều là Mộc tùng bách. Cuốn Lịch vạn niên ( NXB Văn hóa dân tộc-1997) đã ghi rõ hành của mỗi ngày.Các ngày Tân Mão ở đây đều ghi là hành mộc. Vậy nếu xét đoán hôn nhân của hai người theo mệnh nạp âm phải xét cả bốn mệnh nạp âm của người này quan hệ với bốn mệnh nạp âm của người kia.chứ không chỉ xét riêng mệnh nạp âm của năm sinh.Tình hình sẽ phức tạp và bế tắc không làm được. Phương pháp so mệnh Nạp âm là rất phổ biến vì nó có nguồn gốc từ môn Tử vi-bộ môn đã có ở nước ta từ rất lâu và lưu lại đến ngày nay.Từ trang 415-432 của cuốn sách đại diên cho Tử vi nêu trên đã ghi cụ thể sự phối hợp mệnh của hai người. Nhưng chính cuốn này lại viết: “ Hành của mệnh là tài năng, tính chất của bản thân theo tính chất của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hành mộc thì bác ái, văn chương, xét xử…”( trang 345). Vậy mệnh Nạp âm không dùng để xét về hôn nhân.Tử vi đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trong các cuốn sách của Thiệu Vĩ Hoa nêu trên, tác giả chỉ giới thiệu mệnh Nạp âm ở phần lý luận chung. Lý luân ứng dụng vào dự đoán đều không thấy dùng tới. Nhà văn Xuân Cang viết: “ Nạp âm trong toán Hà Lạc còn gọi là mệnh sử dụng rất đắc lực trong bảng năm hành tương ứng của quẻ ( còn gọi là ngũ hành đặc quái), chỉ ra tính người và những nét lớn trong số phận con người rất ứng nghiệm”( Sdd-trang 29). Vậy là với Hà Lác thì mệnh nạp âm cũng không giúp gì trong việc tìm kiếm thông tin về hôn nhân. Qua các luận điểm nêu trên đủ để khẳng định: xét hôn nhân của hai người bằng cách so sánh mệnh Nạp âm của họ là sai lầm.
3-Cung phi ( thuật phong thủy gọi là mệnh quái)
Không biết căn cứ vào đâu mà người xưa áp đặt mỗi người có một cung phi tùy theo năm sinh của họ. Các cung phi này chính là bát quái: càn, khảm,cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài.( xem bảng 2).
Bảng 2: Cung phi
Số của nam
1
9
8
7
6
5
4
3
2
Cung phi
Khảm
Khôn
Chấn
Tốn
Trung cung
Càn
Đoài
Tốn
Ly
Cung sinh
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Ngũ
Lục
Thất
Bát
Cửu
Số của nữ
6
7
8
9
1
2
3
4
5
Cách dùng bảng: lấy số của năm sinh cộng lại, được bao nhiêu chia cho 9, số dư đem đối chiếu với bảng 2 sẽ đươc cung phi của năm sinh.Nếu tổng chia hết cho 9, không còn dư thì lấy luôn số 9. Nếu tổng nhỏ hơn 9 thì lấy tổng đó để đối chiếu. Nếu số dư là 6 thì nam có cung phi là Khôn, nữ có cung phi là Cấn. Ví dụ: nam sinh 1980 ta có: (1+9+8+0):9 =2, không còn dư, xem bảng ta có cung phi là Khôn. Ví dụ nữ sinh 1985 ta tính: (1+9+8+5):9 = 2dư 5. Xem bảng ta được cung phi là Ly.Người ta xét quan hệ hai cung phi của hai người để kết luận hôn nhân của họ là tốt hay xấu, hợp hay không hợp (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự kết hợp giữa các cung phi
Sinh khí
Ngũ quỷ
Diên niên
Lục sát
Họa hại
Thiên y
Tuyệt mệnh
Phục vị
Càn
đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Tốn
Khảm
Khôn
Chấn
Đoài
Càn
Ly
Cấn
Tốn
Khảm
Tốn
Cấn
Ly
Càn
Đoài
Chấn
Khôn
Khảm
Cấn
Khôn
Khảm
Đoài
Chấn
Ly
Càn
Tốn
Cấn
Khôn
Cấn
Tốn
Càn
Ly
Chấn
Đoài
Khảm
Khôn
Các quan hệ cho 4 kết quả tốt là: sinh khí, diên niên, thiên y và phục vị, trong đó sinh khí là tốt nhất. Có 4 loại xấu là: tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát và họa hại, trong đó tuyệt mệnh là xấu nhất. Ví dụ nam sinh 1985 có cung phi là Càn mà lấy nữ sinh 1985 có cung phi là Ly. Càn gặp Ly là tuyệt mệnh-chết người. Vậy mà trong dân gian có câu “Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn” (!?) Sự kết hợp cung phi để cho kết quả tốt, xấu này có nguồn gốc từ phái Bát Trạch của thuật phong thủy. Phái Bát Trạch có nguồn gốc từ Trung-Quốc đã du nhập vào nước ta hàng trăm năm và rất thịnh hành hiện nay.Tổ sư của phái này là Đường Nhất Hạnh. Lý thuyết cơ bản của nó là quan hệ mệnh quái (cung phi) chủ nhà với hướng nhà ( có sách viết là sơn nhà), thường gọi là : mệnh- trạch tương phối. Sự tương phối này cho kết quả tốt hay xấu như nêu trên. Khi làm nhà các chủ nhà cứ theo quy tắc này mà chọn hướng nhà hoặc nơi đặt cổng, cửa, bàn thờ, giường ngủ…Ví dụ: nam sinh 1960 có mệnh quái Tốn nên chọn làm nhà hướng Bắc ( khảm) là tốt nhất. Vì Tốn với Khảm tạo thành sinh khí. Từ quan hệ người- nhà của phong thủy chuyển sang quan hệ người- người là khó chấp nhận vì người là đơn nguyên có tình cảm, tư duy và luôn luôn biến động. Còn nhà ( hướng hay sơn) chỉ là khái niệm chỉ một đơn nguyên bất động, vô tri vô giác.Hơn nữa trong thuật phong thủy, đại sư Thẩm Trúc Nhưng (1847-?), nhà phong thủy nổi tiếng nhất Trung –Hoa thời cận đại đã tinh thông tất cả các môn phái phong thủy trước khi thành danh ở phái Huyền Không. Với phái Bát Trạch, đại sư họ Thẩm có nhận xét: đó là ngụy pháp.( Thẩm thị Huyền Không học- NXB Thời đại 2009,trang 466). Mối quan hệ người-nhà trong phong thủy là giả thì mối quan hệ người-người trong hôn nhân không thể cho kết quả đúng đắn. Nghĩa là xét hôn nhân hai người theo cung phi sẽ cho kết quả sai.
4-Cung sinh
Còn có cách xét đoán hôn nhân theo cung sinh của hai người. Mỗi người có một cung sinh theo năm sinh của mình, giống như cung phi, có 8 loại cung sinh là 8 quẻ đơn ( Bátquái). Cách tìm cung sinh theo bảng 4 và 5.
Bảng 4: Cung sinh của tuổi sinh năm dương.
Can
Chi
Giáp
Bính
Mậu
Canh
Nhâm
Tý
Chấn
Cấn
Càn
Càn
Chấn
Dần
Cấn
Khảm
Khảm
Cấn
Càn
Thìn
Tốn
Khảm
Đoài
Chấn
Khảm
Ngọ
Ly
Càn
Chấn
Ly
Ly
Thân
Khôn
Khôn
Cấn
Khôn
Khôn
Tuất
Càn
Tốn
Tốn
Khảm
Đoài
Bảng 5-Cung sinh của tuổi sinh năm âm.
Can
Chi
Ất
Đinh
Kỷ
Tân
Quý
Sửu
Tốn
Ly
Đoài
Đoài
Tốn
Mão
Ly
Càn
Khôn
Ly
Ly
Tỵ
Đoài
Khôn
Cấn
Tốn
Khôn
Mùi
Khảm
Đoài
Tốn
Khảm
Đoài
Dậu
Chấn
Chấn
Ly
Càn
Chấn
Hợi
Đoài
Cấn
Cấn
Khôn
Cấn
Cách tìm: Người sinh năm âm hay năm dương thì cả nam hay nữ đều có cùng cung sinh. Ví dụ: sinh năm 1961 ( Tân Sửu) thì nam và nữ có cung sinh là Đoài, còn ai sinh năm 1984 ( Giáp Tý) sẽ có cung sinh là Chấn. Kết quả so sánh cung sinh của hai người cũng như so sánh hai cung phi. Bốn loại tốt và 4 loại xấu ( bảng 3). Ví dụ: quý vị nào hỏi: con trai tôi sinh 1980 – Canh Thân nếu lấy cô sinh 1991-Tân Mùi thì có hợp không? Thầy bói xét:Canh Thân có cung sinh là Khôn, Tân Mùi có cung sinh là Khảm, Khảm-Khôn tạo thành tuyệt mệnh- chết người, nên không hợp, không lấy nhau được! Ta thấy cách so cung sinh cũng như cách so cung phi đều theo lối của phong thủy Bát Trạch và đều là ngụy pháp. Các phép so tuổi nêu trên tự nó đã bộc lộ sự sai lầm. Ngoài ra chúng còn có chung các bất cập khác khiến ai cả tin cũng phải băn khoăn nghi ngờ. Sự bất cập đó là:
– Không thống nhất kết quả giữa các phương pháp: Cùng một năm sinh mà có các dữ liệu khác nhau. Ví như nam sinh năm 1982-Nhâm Tuất: mệnh Nạp âm là Thủy đại hải; cung phi: LY, cung sinh: Đoài. Ly là hỏa, Đoài là kim. Một năm Nhâm Tuất-1982 cho tới 3 dữ liệu khác nhau đến mức khắc nhau ( thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim) thì biết tính sao? Hoặc là không thể tin vào cái nào; hoặc ai đó cứ nhắm mắt tin thì cũng chỉ chọn đúng có một, còn sai hai ( đúng chiếm tỉ lệ 1/3).
– Xét trên thực tế: Một người có hạnh phúc lứa đôi khi họ cảm nhận đươc ở người kia những gì khiến họ thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau bởi nó chịu chi phối của nhiều yếu tố: giới tính, tuổi, tính cách, sức khỏe, tinh thần, hoàn cảnh sống…Nếu ta tin rằng so tuổi để xác định hôn nhân sẽ cho kết quả đúng thì phải tin: tất cả mọi người sinh ra trong cùng một năm sẽ có nhu cầu chọn bạn đời có cùng đặc điểm và cùng năm sinh. Ví dụ: khoảng 2,2 triệu người sinh trong năm 2010 ở nước ta khi lớn lên sẽ có mong muốn tìm bạn đời giống nhau. Nếu xét nạp âm và can chi thì nhu cầu này còn giống nhu cầu của các ông, các cụ sinh ra từ các năm Canh Dần đã qua: 1950, 1890…và các cháu chắt có tuổi Canh Dần sau này: 2070, 2130…Ai tin như vậy là mê tín đến mức mù quáng. Tới đây chúng ta có thể thống nhất đi tới kết luận: dự đoán về hôn nhân không cần xem tuổi.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Know Who You Are And Who You Want To Be trên website Duanseadragon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!