Đề Xuất 3/2023 # Chiêm Tinh Học Với Người Phương Tây # Top 7 Like | Duanseadragon.com

Đề Xuất 3/2023 # Chiêm Tinh Học Với Người Phương Tây # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Chiêm Tinh Học Với Người Phương Tây mới nhất trên website Duanseadragon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chiêm tinh học quả là một khoa thẩn bí. Tính thần bí ấy khởi nguồn từ chỗ chỉ dựa trẽn mấy dữ kiện “chẳng đâu vào đâu” mà đôi khi đoán “trúng phóc” nhiều biến cố của đời người. Tính thần bí còn khởi nguồn từ biết bao điều bí ẩn, chưa ai lý giải nổi từ vô số ngẫu nhiên trong cuộc sống nói chung và trong số phận từng con người nói riêng. Tính thần bí ấy càng tăng thêm bởi thứ ngôn ngữ “Bác học”, chẳng dễ hiểu chút nào của khoa Chiêm tinh.

Nói vậy không có nghĩa khoa Chiêm tinh là hoàn toàn thần bí, khó hiểu và ghê gớm. Việc làm sáng tỏ những căn cứ của nó sẽ giúp ta nhận thức đúng về nó và qua đó, có thể vận dụng những yếu tố tích cực, loại bỏ các tác động tiêu cực của nó trong mọi mặt hoạt động thường ngày. Nhiều nhà khoa học xưa nay đã dày công tìm kiếm hoặc tim cách lý giải căn cứ lý luận, cơ sở khoa học, hoặc “cơ chế” vận hành của sự phát sinh, phát triển, hoặc của các quy tắc Chiêm tinh học. Có những nhà Bác học lớn kiêm Chiêm tinh gia nổi tiếng, như nhà thiên văn học Đức J. Kepler (1571-1630), người đã phát hiện ra quy luật vận động của các hành tinh, rồi trên cơ sở ấy lập bản đồ sao (lá số Tử vi phương Tây), như nhà toán học Italia Cardinì (Thể kỷ XVIII). Một số nhà khoa học đương đại thì đưa ra những giả Thuyết khác nhau. Ví dụ, có quan điểm cho rằng tác động của các sóng “siêu vật chất” từ Vũ trụ tới, làm thay đổi bản chất của “gien” di truyền, có thể giải thích mối liên hệ giữa số phận con người với trạng thái đất trời lúc sơ sinh. Có giả thuyết dựa vào các nguyên lý của lôgich toán học để cắt nghĩa sự trùng hợp giữa các hiện tượng ngẫu nhiên trong quá trình sống. Hoặc coi lá số Tử Vi như một chương trình toán – lý phức tạp mà điều kiện ban đầu có ý nghĩa quyết định.

Họ cho rằng Chiêm tinh học là luận thuyết giải đoán và dự báo số phận con người, vận mệnh của quốc gia, dân tộc thông qua mối liên hệ giữa vị trí các thiên thể với các sự kiện lịch sử, với số phận con người. Ta đọc thấy định nghĩa này trong các từ điển bách khoa toàn thư. Chiêm tinh học xuất hiện trên Thế giới từ thời xa xưa, do nhu cầu lý giải sự vận động, ở phương Đông, ta quen gọi tà Tử Vi (từ đây, chúng tôi sẽ gọi như vậy cho tiện và để phân biệt với khoa Chiêm tinh phương Tây). Theo ý chúng tôi, Tử Vi có một căn cứ vững chắc hơn, biện chứng hơn, và do đó, sự giải đoán của nó “nghệ thuật” hơn, cụ thể hơn, chính xác hơn so với khoa Chiêm tinh phương Tây. Cả hai đều dựa trên tư tưởng triết học cổ đại. Song, cũng theo ý chúng tòi, tư tưởng triết học cổ đại của phương Đông phải nói là một thành tựu tuyệt vời mang tính phổ quát cao, mà rồi đây người ta, đặc biệt giới hoa học phương Tây, sẽ còn trở lại để tìm hiểu và học hỏi nhiều ở nó. Trong dịp tiếp xúc với chúng tôi, hàng trăm nhà khoa học nước ngoài đều thừa nhận như vậy.

Chiêm tinh học phương Tây dựa trên quan điểm coi Trái đất là trung tâm của Vũ trụ. Các hành tinh khác chỉ đóng vai trò thứ yếu. Sự vận động của các thiên thể hợp thành các vị thế nhất định vào từng thời điểm nhất định. Một con người sinh ra vào thời điểm nào đó, cũng như một quốc gia, một dân tộc vào những thời điểm nhất định, sẽ phải chiụ ảnh hưởng chi phối mạnh mẽ, thậm chí mang tính chất quyết định, của các vị thế nói trên.

Người Hy Lạp cổ đại cho rằng mỗi hành tinh mang một đặc tính riêng. Ví dụ, Hỏa tinh đồng nghĩa với tính tích cực, chủ động. Họ cũng phát hiện ra rằng Mặt trăng và các hành tinh luôn luôn vận động theo một đường vạch sẵn. Mặt trời mỗi năm lặp lại hành trình của nó qua các chòm sao như cũ. Các nhà thiên văn thời ấy gọi phức thể những chòm sao nằm dọc vòng cung lớn của bầu trời mà theo đó Mặt trời “đi” qua trong thời gian một năm là Đường Hoàng Đạo. Cung hoàng đạo là vùng trong không gian, ở giữa có quỹ đạo biểu kiến của Mặt trời và gồm 12 chòm sao mà Mặt trời thường phải đi qua trong khoảng một năm.

Như vậy là có 12 cung. Mỗi cung tương ứng thời gian trên dưới một tháng, được phân bổ như sau:

Bảo Bình (Verseau) từ 21-1 đến 19-2

Song Ngư (poissons) từ 20-2 đến 20-3

Dương Cưu (Bélier) từ 21- 3 đến 20-4

Kim Nguu (Taureau) từ 21-4 đến 20-5

Song Nam (Gémeaux) từ 21-5 đến 21-6

Bắc Giải (Cancer) từ 22-6 đến 22-7

Hải Sư (Lion) từ 23-7 đến 22-8

Xử Nữ ( Vierge) từ 23 – 8 đến 22-9

Thiên Xứng (Balance) từ 23- 9 đến 23-10

Hổ Cáp (Scorpion) từ 24-10 đến 22-11

Nhân Mã (Sagìttaire) từ 23—11 đến 21-12

Nam Dương (Capricorne) từ 22-12 đến 20-1

Mỗi chòm sao, hay mỗi cung, có ảnh hưởng nhất định, tương ứng tính cách, khí chất của con người ra đời trong khoảng thời gian thuôc cung ấy. Vi dụ, người sinh ra thuộc cung Thiên Xứng thi có óc thẩm mỹ nghệ thuật, ưa trừu tượng. Cung Hổ Cáp- cảm xúc mạnh . Nhân Mã – trọng chân lý, sự thật, ham hoạt động xã hội. Nam Dương – lạnh lùng, nghiêm túc. Bảo Bình- thích tự do, thoải mài. Song Ngư- giàu nhân ái, nhạy cảm. Dương cưu- thẳng thắn, tỉnh táo. Kim Ngưu- trọng vật chất, óc thực tế. Song Nam – tich cực, mau lẹ, ưa cụ thể. Bắc Giải- bình thản, thận trọng, ưa số liệu chính xác. Hải Sư – ý chí mạnh, quyết tâm cao. Xử Nữ – tiết kiệm, ưa luận xét và duy lý.

Các nhà Chiêm tinh gia cho rằng: cung Hoàng đạo chi phối nghề nghiệp của con người. Do tính cách và khí chất, người thuộc cung nào đó sẽ thành công hơn cả trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nào đó. Ví dụ, Thiên Xứng- nghề tin học, khảo cổ học, kinh tế học. Hổ Cáp- nghề sử dụng vi tính, ngành ngôn hảng, nghề điền chủ. Nhân Mã- nghề gì được tự do, chủ động về thời gian, được làm riêng một mình. Nam Dương – nghề ký giả….

Dữ kiện ban đầu để lập bản đồ sao (lên lá số Tử Vi phương Tây) là giờ, ngày, tháng, năm (theo Dương lịch), trong đó yếu tố quan trọng vào giờ sinh là sự sắp đặt tổng thể các hành tinh trên trời. Căn cứ vào sự sắp đặt ấy nghĩa là vào mối quan hệ giữa các phương góc, nhà Chiêm tinh sẽ giải đoán tính nết và số phận con người.

Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vào Thế kỷ XX này, Chiêm tinh học đựơc phổ biến và ứng dụng rộng rãi lan tràn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có những nơi, người ta sử dụng khoa chiêm tinh một cách thực sự nghiêm túc, như ở Nhật Bản, có “công ty lựa chọn và bố trí cán bộ căn cứ vào là số Tử Vi”. Hoặc như ở Mỹ, Pháp, các nhà chiêm tinh thỏa sức làm tiền. Báo chí Mỹ đưa tin Bà Nancy Reagan (vợ cựu tổng thống Mỹ R.Reagan) vẫn hỏi ý kiến của các nhà Chiêm tinh về những vân đề hệ trọng nhất. Tại Mỹ, các nhà Chiêm tinh vừa đề xuất một ngành mới gọi là Chiêm tinh kinh tế học (Xem báo Sự thật, Pravda, ngày 12-2-1990). Họ đã giới thiệu các thành tựu mới nhất của ngành này tại hội nghị toàn thế giới về Chiêm tinh kinh tế học họp tại Chicago Tháng 12 -1989. Hãng “Astrolab” của Mỹ trưng bày một sản phẩm mới, giá bán 1.995 đôla, với công dụng lập chương trình tính toán các chỉ số chiêm tinh để xác định những điều kiện buôn bán có lợi nhất đối với mọi mặt hàng, từ vàng bạc đến thuốc men.

Sự Khác Biệt Giữa Tử Vi Phương Đông Và Chiêm Tinh Phương Tây

Điểm tương đồng chính giữa hai hệ thống là cả hai đều dựa trên ngày và giờ sinh, với 12 biểu tượng hoặc dấu hiệu được sử dụng để giao tiếp qua ý nghĩa. Chúng tôi sẽ liệt kê một số khác biệt chính, để làm cho mọi thứ dễ hiểu hơn một chút.

Nguồn gốc của các 12 biểu tượng:

Trong tử vi Trung Quốc, 12 biểu tượng con giáp bắt nguồn từ một huyền thoại rằng khi lịch được phát triển, tất cả các sinh vật trên Trái đất được triệu tập để tham gia vào một cuộc đua. 12 con vật đầu tiên vượt qua ranh giới đã được trao các dấu hiệu trong cung hoàng đạo Trung Quốc.

Điều này khác với chiêm tinh học phương Tây nơi 12 biểu tượng dựa trên vị trí của các chòm sao so với trái đất. Các chòm sao được đặt tên theo thần thoại Hy Lạp.

Tháng hoàng đạo – Một sự tương đồng khác

Các biểu tượng động vật Trung Quốc được chỉ định tháng theo lịch mặt trời truyền thống của Trung Quốc. Mỗi con vật tương ứng với hai trong số 24 thuật ngữ mặt trời, trong khoảng thời gian tương tự như một tháng hoàng đạo phương Tây.

Cung hoàng đạo Trung Quốc và cung hoàng đạo phương Tây có thời gian chồng nhau nửa tháng. Điều này có nghĩa là các dấu hiệu chiêm tinh phương Tây và các tháng hoàng đạo Trung Quốc có nửa tháng mà các biểu tượng đi vào nhà của nhau.

Chu kỳ của Trung Quốc bắt đầu bằng tháng Tý, khoảng ngày 7 tháng 12 (Tương tự như ‘Major Snow’ và ‘Winter Solstice’, tức là một nửa Nhân Mã và một nửa Ma Kết).

Không chỉ là năm sinh hoặc tháng của bạn Quan trọng trong tử vi

Nói đơn giản, trong chiêm tinh phương Tây, các biểu tượng được chia mỗi tháng, trong khi các biểu tượng Trung Quốc được phân chia theo từng năm khi nói đến chiêm tinh học. Điều này có nghĩa là trong tín ngưỡng của người Trung Quốc, những người sinh ra trong cùng một năm có những đặc điểm tương tự, trái ngược với niềm tin của phương Tây rằng những người sinh ra trong cùng một khung thời gian dài một tháng có những đặc điểm tương tự.

Trong chiêm tinh học phương Tây, ngoài các chòm sao, chẳng hạn như các hành tinh, tượng trưng cho những nguồn căn cơ bản trong tâm lý con người. Bên cạnh cung hoàng đạo hàng năm, chiêm tinh học Trung Quốc còn có ba yếu tố khác tạo nên số phận của bạn, tổng cộng bốn yếu tố: năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh.

Khi so sánh bốn yếu tố này với chiêm tinh học phương Tây, sự khác biệt chính là chiêm tinh học phương Tây tập trung vào sự liên kết thiên thể (của các chòm sao với các hành tinh, ngôi sao, mặt trăng, v.v.), trong khi bốn yếu tố (ngày, giờ, tháng, năm sinh) dựa trên sự liên kết của các khối thời gian trong Lịch Trung Quốc.

Lịch Trăng? Chính xác hơn chính là lịch Mặt Trời.

Trong hệ thống chiêm tinh học được sử dụng phổ biến của Trung Quốc (âm lịch), mỗi tháng bắt đầu bằng một mặt trăng mới và kéo dài trong 29 hoặc 30 ngày. Ngày Tết của Trung Quốc và độ dài của một năm âm lịch thay đổi tới một tháng so với lịch mặt trời.

Tuy nhiên, chiêm tinh học “chuyên nghiệp” hay thông thường của Trung Quốc chủ yếu sử dụng lịch mặt trời truyền thống khi đưa ra dự đoán và đưa ra tử vi. Trong phương pháp này, một năm bắt đầu vào ngày 4 tháng 2.

Lịch chiêm tinh phương Tây dựa trên quỹ đạo của Trái đất quanh mặt trời (và kết quả là sự liên kết tinh hệ), mang lại cho mỗi tháng hoàng đạo một ngày định sẵn, kéo dài từ 29 đến 31 ngày. Đây là lý do tại sao các dấu hiệu sao hoàng đạo phương Tây còn được gọi là dấu hiệu mặt trời.

Mốc thời gian trong tử vi theo lịch Mặt Trăng ở Trung Quốc và phương Tây

Chiêm tinh học (tử vi) Trung Quốc chú trọng vào giai đoạn mặt trăng tại thời điểm bạn được sinh ra. Có bốn giai đoạn mặt trăng: mặt trăng non, mặt trăng khuyết, trăng tròn và mặt trăng tàn. Trăng non đại diện cho những người tìm kiếm môi trường sáng tạo, những người sinh ra vào thời điểm trăng khuyết được biết đến là người chăm chỉ, lúc trăng tròn là thiên ngoại giao, trong khi những người sinh ra lúc thời điểm mặt trăng tàn thường mong muốn môi trường xung quanh yên bình.

Nếu so sánh, hệ thống tử vi phương Tây chú trọng xem xét hai đỉnh mặt trăng; đỉnh phía Bắc (mặt trăng mọc) và đỉnh phía Nam (mặt trăng lặn). Mặc dù mặt trăng vẫn được xem là yếu tố khá quan trọng, nhưng trong chiêm tinh học phương Tây, các hành tinh được xem là yếu tố quan trọng hơn.

Hệ thống chiêm tinh học/ tử vi Trung Quốc xác định năm yếu tố: lửa, đất, kim loại, nước và gỗ. Mỗi yếu tố được liên kết với các lực tác động trong cuộc sống của bạn.

Bởi vì 12 con giáp đang ở trong chu kỳ 12 năm và có năm yếu tố, toàn bộ chu kỳ nguyên tố hoàng đạo Trung Quốc kéo dài 60 năm. Trong hệ thống này, mỗi con giáp sẽ có một loại lửa, đất, kim loại, nước và gỗ tùy thuộc vào năm sinh của bạn.

Lửa được lấy cảm hứng từ sự phấn khích,

Trái đất được thúc đẩy để bảo đảm nền tảng,

Kim loại được thúc đẩy để tạo ra trật tự,

Nước mang ý nghĩa hình thành liên kết tình cảm,

và những người sinh ra dưới yếu tố gỗ có mong muốn khám phá.

Nước được thúc đẩy bởi cảm xúc,

Trái đất là thực tế,

Ngọn lửa là bốc đồng, và

Không khí được định hướng về trí tuệ.

Năm hoàng đạo Trung Quốc của bạn là một năm không may!

Một đặc điểm của 12 con giáp Trung Quốc hoàn toàn khác biệt so phương Tây là đó là điều xui xẻo vào năm tuổi của bạn (cứ sau 12 năm bạn lại “phạm đến tuổi của Thần”). Tử vi Phương Tây thì không tin vào điều này.

Thông báo miễn trừ trách nhiệm:MoonRadius Life không sở hữu bài viết này. Mọi quyền sở hữu thuộc Chinahighlights. Đây là bản dịch tiếng Việt của bản gốc tiếng Anh với mục đích thuần túy là chia sẻ thông tin phi lợi nhuận. Nếu có khác biệt gì, thông tin ở bản tiếng Anh luôn là tiêu chuẩn.

Source: chinahighlights

Chiêm Tinh Học Và Thuật Bói Toán Tại Việt Nam Cổ Truyền

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN Lời Người Dịch:

Ngô Bắc dịch

*** Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Chiêm Tinh Học Việt Nam: Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và Văn Chương Thứ Yếu

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm 喃. 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 喃” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam: Một Tổng Quan

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Theo quyển [ Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu ” Ti Thiên Giám ” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Các Sự Quan Sát Thiên Văn Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” ( san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số 紫 微斗 數

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳”viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: ” 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 以 為 主 掌 籌 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 : thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 ( cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak (“Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA’s GSFC”) tại

http://eclipse.gsfc….as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm “1472” trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

58. Trần 1938: 106-107.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 ( An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 ( Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 ( Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 ( Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). “Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’Annam.” Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d’Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l’Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). “Études d’ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination.” Actes du XI’ Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). “L’astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l’art militaire.” Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). “L’astrologie chez les Annamites: ses applications a l’art militaire.” Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). “Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант” (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). “L’enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan.” In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). “Bibliographie Annamite.” BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). “Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử).” Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). “Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source.” Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d’Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). “Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren.” Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). “La littérature divinatoire dans le Daozang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin’s Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 喃 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d’une page de l’almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). “La divination d’après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). “Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam.” Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). “Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam’s demotic script.” Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) – une bureaucratie à l’épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). “Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu.” Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L’École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). “A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology.” Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). “Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2009). “Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam.” Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). “Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics.” Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). “Cartography in Vietnam,” trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

Alexei Volkow

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Ngô Bắc dịch

Bói Chiêm Tinh Để Biết Nam Nhân Mã Có Hợp Với Nữ Kim Ngưu Không?

Trong tình yêu Kim Ngưu có hợp với Nhân Mã không?

Nhân Mã là những người có nhiều khả năng khác người, nổi tiếng là người giỏi truyền cảm hứng và chinh phục người khác. Một khi Nhân Mã đã định được mục tiêu cho mình thì họ sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Trong tình yêu cũng vậy. Nếu như họ đã đem lòng yêu mến ai đó thì họ sẽ theo đuổi và chinh phục người đó cho đến cùng. Nhân Mã là người rất nhanh nhẹn và hòa đồng nên việc chiếm được cảm tình của người bạn khác giới không có khó khăn gì cả. Nếu xét về mức độ thu hút giữa nam Nhân Mã và nữ Kim Ngưu thì chắc chắn Nhân Mã sẽ là người cuốn hút Kim Ngưu trước, đưa Kim Ngưu từ bất ngờ này sang bất ngờ khác và cả sự nể phục tài năng của mình.

Còn về phía Kim Ngưu thì có phần hơi nhút nhát và thụ động hơn. Kim Ngưu để lại ấn tượng cho người khác về sự quyết đoán và bản lĩnh, giữ vững lập trường của mình. Là một Kim Ngưu, họ luôn có mục đích hướng tới tương lai ổn định. Trong tình yêu, họ là những người có những suy nghĩ nghiêm túc nhất và có ý định lâu dài trong mối quan hệ của mình. So sánh sự cuốn hút và tài năng giữa nữ Nhân Mã và nam Kim Ngưu thì Kim Ngưu cũng để lại những nét ấn tượng nhất định. Họ là những người có triết lý sống sâu sắc và luôn tỏ ra điềm đạm trước tất cả sự việc. Sự kiên trì và bền bỉ chính là yếu tố quan trọng giúp cho Kim Ngưu luôn phù hợp với các cung hoàng đạo khác trong chuyện tình cảm.

Cung Kim Ngưu và Nhân Mã có hợp nhau không?

Để trả lời chính xác cho câu hỏi cung Nhân Mã và Kim Ngưu có hợp nhau không thì bạn đọc cần nghiên cứu tính cách của họ có nhiều điểm tương đồng với nhau không đã. Có thể mối quan hệ này trong giai đoạn đầu tiên sẽ trải qua không ít sóng gió, nhưng khi đã thực sự hiểu nhau và dành tình cảm cho nhau nhiều hơn thì cặp đôi Nhân Mã – Kim Ngưu sẽ có được hạnh phúc lâu dài.

Sự kết hợp giữa Đất cố định và Lửa linh hoạt, chắc chắn sẽ là một mối quan hệ có nhiều sự đam mê, cuốn hút nhau. Cả hai đều là những người có óc thẩm mỹ tốt và đam mê nghệ thuật. Tình yêu giữa chàng Kim Ngưu và nàng Nhân Mã thường không bao giờ tẻ nhạt. Sự đam mê mãnh liệt của cung Kim Ngưu luôn được người thuộc cung Nhân Mã đáp ứng. Tuy Kim Ngưu là người hay có tính kiểm soát nhưng khi Nhân Mã ở bên cạnh lại không hề cảm thấy khó chịu chút nào. Ngược lại Nhân Mã lại cảm thấy thoải mái bởi có thể là chính mình, tự do làm những điều mình thích bởi Kim Ngưu là người hiểu chuyện và có tính chịu đựng rất tốt. Nếu kết hợp thành một đôi thì Nhân Mã và Kim Ngưu sẽ hỗ trợ nhau rất nhiều trong các vấn đề của cuộc sống và công việc của nhau.

Nam Kim Ngưu nữ Nhân Mã có hợp nhau không?

Có thể ngay lần đầu gặp gỡ, cả hai chưa thực sự ấn tượng về nhau. Nhưng càng về sau khi càng tìm hiểu thì sự điềm tĩnh và mạnh mẽ, bản lĩnh của chàng trai Kim Ngưu đã thu phục được tình cảm cô nàng Nhân Mã rồi. Tuy nhiên, để đến được với nhau thì chàng Kim Ngưu và nàng Nhân Mã cần trải qua được giai đoạn đầu và biết cách chấp nhận những quan điểm khác biệt của nhau.

Chàng trai Kim Ngưu sẽ vô cùng hãnh diện khi được một cô gái năng động Nhân Mã để ý tới. Nhưng tính cách của hai người có phần trái ngược nhau đôi chút. Cô nàng Nhân Mã là người thông minh, linh hoạt nhưng chàng Kim Ngưu thì bản lĩnh cũng không kém. Kim Ngưu mang tính ổn định và chịu đựng hơn. Tuy nhiên đôi lúc chàng trai này cũng sẽ cảm thấy khó chịu bởi sự hào phóng và rộng rãi, thoải mái của cô nàng Nhân Mã trong các mối quan hệ cá nhân của mình. Cặp đôi namKim Ngưu và nữ Nhân Mã nếu muốn ở bên nhau lâu dài thì cần học cách nhường nhịn nhau và quan tâm, chia sẻ với nhau nhiều hơn nữa.

Nam Nhân Mã và nữ Kim Ngưu có hợp nhau không?

Việc Kim Ngưu gặp gỡ chàng trai Nhân Mã là một cú sốc trong cuộc đời nhưng đó cũng có thể là một tiếng gọi thức tỉnh bạn. Con người Kim Ngưu thực sự rất khó hiểu và cố chấp. Bề ngoài cô nàng có thể chê trách những việc thoải mái của chàng trai Nhân Mã nhưng sự thật thì nàng ấy lại muốn được thả lỏng bản thân và làm những việc đó. Nếu cặp đôi chàng Nhân Mã và nàng Kim Ngưu thực sự muốn tiến tới lâu dài thì cần sự nỗ lực, cố gắng rất nhiều từ cả hai phía.

Những khó khăn trong tình yêu của Kim Ngưu và Nhân Mã, hướng giải quyết như thế nào?

Nếu để nói khó khăn hay xung đột giữa mối quan hệ tình cảm của Kim Ngưu và Nhân Mã vì đâu mà nên thì vấn đề thường xuất hiện từ phía Nhân Mã. Cung hoàng đạo này có tính tình phóng thoáng và thích bay nhảy, hướng ngoại. Tuy Kim Ngưu là người giỏi chịu đựng và cam chịu nhưng đôi lúc, tức nước thì vỡ bờ nên đôi lúc sự quá đà của Nhân Mã sẽ làm Kim Ngưu khó chịu và xung đột xảy ra. Kim Ngưu sẽ không bao giờ đồng tình việc Nhân Mã mở rộng mối quan hệ xã hội cũng như có nhiều người bạn khác giới.

Một nguyên nhân khác cũng xuất phát từ phía Kim Ngưu. Họ là những người nhạy cảm và luôn khao khát được người khác quan tâm, chăm sóc. Trong chuyện tình cảm giữa cung Nhân Mã và Kim Ngưu thì Nhân Mã luôn là người tuyệt vời với người yêu của mình nhưng lại rất thất thường và không ổn định. Việc đôi lúc khiến cho Kim Ngưu phải buồn phiền, tủi thân là điều không tránh khỏi. Sẽ có những lúc Nhân Mã tập trung vào một số việc khác hoặc bị cuốn hút vào các mối quan hệ bên ngoài làm cho Kim Ngưu có cảm giác bị bỏ quên.

Nhân Mã cũng nổi tiếng là người không giữ lời hứa trong khi Kim Ngưu là người chu toàn và hay để ý. Sự hứa suông của Nhân Mã đôi lúc cũng khiến cho đối phương hụt hẫng và cảm thấy Nhân Mã không đủ an toàn để mình giao phó cả cuộc đời. Tuy nam Nhân Mã và nữ Kim Ngưu đều có những thế mạnh và tính cách có thể bù trừ nhau nhưng việc xảy ra tranh chấp hay xung đột thì là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Chiêm Tinh Học Với Người Phương Tây trên website Duanseadragon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!