Đề Xuất 6/2023 # Bài Viết Và Thuyết Giảng Audio: Giáo Lý Bùa Ngải # Top 14 Like | Duanseadragon.com

Đề Xuất 6/2023 # Bài Viết Và Thuyết Giảng Audio: Giáo Lý Bùa Ngải # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bài Viết Và Thuyết Giảng Audio: Giáo Lý Bùa Ngải mới nhất trên website Duanseadragon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

BÀI VIẾT VÀ THUYẾT GIẢNG AUDIO: GIÁO LÝ BÙA NGẢI – XEM BÓI TOÁN VÀ NHỮNG ĐIỀU TƯƠNG TỰ!!!

06.12.2012 01:42 – đã xem : 4786

Qua nghiên cứu thực tế thấy được ngày càng có nhiều người sử dụng bùa ngải để hành nghề chữa bệnh, xem bói toán, tìm kiếm vật mất tích… đã xảy ra rất nhiều nơi kể cả trên đất nước Islam. Sở dĩ được nhiều người tin tưởng là do họ thiếu hiểu biết, do bị mù quáng nhất thời. Bùa ngải là mối hiểm họa khôn lường đối với tôn giáo Islam và cộng đồng Muslim, nên chúng tôi muốn gởi đến quí đạo hữu Muslim bài viết này nhằm phân tích rõ ràng về hiểm họa đó, bởi đây là việc đặt niềm tin sai trái và kháng lệnh của Alalh và của Rasul (saw).

Bùa ngải là mối hiểm họa khôn lường đối với tôn giáo Islam và cộng đồng Muslim, nên chúng tôi muốn gởi đến quí đạo hữu Muslim bài viết này nhằm phân tích rõ ràng về hiểm họa đó, bởi đây là việc đặt niềm tin sai trái và kháng lệnh của Alalh và của Rasul (saw).

Nabi (saw) đã nói: “Người (Muslim) nào tìm đế nhà chiêm tinh để tìm hiểu thông tin thì lễ Salah của y không được (Allah) chấp nhận trong bốn mươi ngày (đêm).”

Có Hadith khác do Abu Hurairah (R) dẫn lời Rasul (saw) rằng: “Người (Muslim) nào tìm đến nhà tiên đoán hoặc thầy bói và tin tưởng vào lời lẽ chúng nói thì y đã phủ nhận hết tất cả mọi thông tin được mặc khải cho Muhammad (saw).” Hadith do Abu Dawood, tập thể Sunan và được Al-Haakim xác thực.

Còn Hadith khác từ Ibnu Husain (R) dẫn lời Rasul (saw): “Trong tôn giáo Islam không có việc mê tín dị đoan hoặc hành nghề bói toán hoặc tìm người xem bói hoặc làm thầy bùa hoặc tìm đến thầy bùa. Đối với người (Muslim) nào tìm đến thầy bùa và tin tưởng vào mọi điều chúng nói là y đã phủ hết tất cả mọi thông tin được mặc khải cho Muhammad (saw).” Hadith do Al-Bazzaar ghi lại bằng đường truyền tốt.

BÀI THUYẾT GIẢNG AUDIO DO ABU HISAAN IBNU YSA PHỤ TRÁCH “TAWHID NÓI VỀ LIÊN QUAN BÙA NGÃI VÀ BÓI TOÁN”

Phật Giáo Và Địa Lý Phong Thủy

Đối với vạn vật trong cõi nhân gian, Phật giáo đều có sự quan sát thấu đáo, hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân có nhân lý, vật có vật lý, tình có tình lý, tâm có tâm lý. Trên thế gian bất kỳ sự vật gì cũng có cái “lý” riêng biệt của nó, địa lý phong thủy tất nhiên cũng có “nguyên lý” của nó.

Địa lý là dựa vào địa hình và phương vị thiên thể mà sinh ra tầm ảnh hưởng đối với con người, đây là thường thức của tự nhiên; thuận với lẽ tự nhiên có thể thu được thời cơ thuận lợi, đạt được địa thế cực tốt của non sông; trái với tự nhiên, sẽ có kết quả ngược lại.

Mưu cầu cuộc sống bình an, mong mỏi xa lìa những muộn phiền âu lo, xưa nay đều như vậy. Nhưng mà, thái độ của người bình thường, đối với các sự vật không hiểu, không biết, không thể nhìn thấy, thường mù quáng mò mẫm suy đoán chủ quan, gán ghép méo mó, thậm chí mê hoặc tin nó, vì vậy dễ dàng bị mê tín thần quyền điều khiển, khống chế. Người Trung Quốc từ xưa đến nay tin tưởng một cách tuyệt đối vào thuyết “địa lý phong thủy có thể ảnh hưởng tới phúc họa của một đời người”, là một ví dụ.

Địa lý phong thủy cố nhiên có nguyên lý của nó, song không phải là chân lý rốt ráo. Đứng ở góc độ của thuyết Nghiệp lực và thuyết Nhân quả trong giáo lý của Đức Phật để xem xét, ta thấy rằng lành dữ họa phúc, đều là do nghiệp nhân thiện ác của kiếp quá khứ tạo thành quả báo của đời nay, vốn không phải chịu tác động chi phối hay thao túng của phong thủy địa lý.

Hơn nữa, dưới cái nhìn thời-không của Phật giáo, người học Phật biết rằng hư không vốn không có phương vị tuyệt đối, ví như hai người là A và B ngồi đối diện nhau, bên phải của A là bên trái của B, phía trước của B là phía sau của A, trong thời-không vô biên, không ranh giới, sinh mệnh thật sự của chúng ta là đang ở khắp mọi nơi, không chỗ nào không có mặt, làm gì có chuyện phân chia phương vị thời-không?

Khi một người có thể giác ngộ để thể chứng được bản lai diện mục của chính mình, thì bản thể tự tâm liền biến khắp hư không, tràn ngập pháp giới, ngang khắp mười phương, dọc cùng ba đời, dung hòa thành nhất thể với thời-không vô hạn, vì vậy phương vị không ở chỗ khác, mà là ở ngay trong tâm của mỗi chúng ta.

Thời đại Đức Phật, trong Bà-la-môn-giáo thuộc xứ Ấn Độ, có thuyết “sáng sớm tắm rửa, kính lễ sáu phương, có thể tăng thêm tuổi thọ và của cải”. Lúc bấy giờ, Thiện Sanh – con của một vị trưởng giả ở thành Vương Xá, mỗi sáng sớm sau khi tắm rửa xong, liền y vào pháp của Bà-la-môn hướng về sáu phương lễ bái. Đức Phật nói với ông ta rằng: Sáu phương (đông, nam, tây, bắc, thượng, và hạ) có thể phối hợp với cha mẹ, thầy cô, vợ chồng, gia tộc, đầy tớ, Sa môn (Srmaṇa) Bà- la-môn…; tiếp đó, Ngài thuyết về năm pháp cung kính mà mỗi một con người tùy theo phương vị của mình đều phải tuân giữ khi đối xử với người khác tùy theo phương vị của họ, điều đã được nêu trong kinh Thiện Sanh.

Đức Phật mượn năm việc này hướng dẫn cho tín chúng cách giao tiếp, ứng xử đúng với đạo đức luân lý gia đình; đồng thời qua đấy cho biết phong thủy, địa lý cần phải xây dựng trên luân lý, thế lý, pháp lý, và cả tâm lý; chỉ cần chúng ta thành tâm, cõi lòng thanh thản, thì “mỗi ngày đều là ngày đẹp, khắp nơi đều là nơi đẹp”, cho dù đi khắp thiên hạ, đều là địa lợi nhân hòa, lương thần cát nhật (ưu thế về địa lý được lòng người, ngày lành tháng tốt), bởi vì tất cả phước điền đều không rời xa tâm địa.

Phật giáo là một tôn giáo trí tín, tất cả giáo lý Phật giáo như Nghiệp lực, Nhân quả, Tam pháp ấn, Tứ diệu đế, Bát thánh đạo, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đều có mục đích chung là nhằm khai mở trí tuệ của chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh nhận thức đúng bản chất của thực tướng nhân sinh, từ đó đi đến giải quyết các phiền não khổ đau, đạt được giải thoát tự tại, sao có thể mê tín dị đoan địa lý phong thủy, chỉ tăng thêm phiền não, vọng niệm và si mê mà thôi.

Trong kinh Di giáo, Đức Phật khuyên răn đệ tử rằng: “Coi tướng lành dữ, tính tử vi, suy luận hão huyền, coi bói tính số; những việc coi ngày giờ tốt xấu như thế này đều không nên làm”. Luận Đại trí độ quyển 3 nói: “Người xuất gia lấy thuật xem tinh tú, nhật nguyệt phong vũ… để tồn tại, là cầu miếng ăn” là một trong những cách mưu sinh không chính đáng mà Đức Phật khuyến cáo người xuất gia cần phải tránh xa. “Coi tướng lành dữ” chính là một trong “ngũ tà mệnh” (năm cách kiếm sống không chính đáng), người con Phật nên lấy đó làm lời cảnh tỉnh, nhắc nhở cho chính bản thân mình.

Phải có ánh sáng mặt trời, ánh sáng tự nhiên, ấm áp, sạch sẽ;

Phải có khoảng trống để ngắm nhìn, mênh mông bát ngát, cõi lòng siêu thoát;

Phải có thông lộ, ra vào dễ dàng, ta người đều thấy tiện lợi.

Nói tóm, chỉ cần có thể tiện lợi cho sinh hoạt, trong cõi lòng vui vẻ thoải mái, đấy chính là địa lý phong thủy tuyệt vời nhất.

Phật giáo cho rằng bên ngoài nếu có được địa lý môi trường chung quanh tốt đẹp, cố nhiên là điều rất tốt lành, nhưng quan trọng hơn cả là nội tâm cũng phải có địa lý phong thủy tốt đẹp. Nghĩa là nội tâm bên trong có: thông gió tốt – dòng suy nghĩ thông suốt; ánh nắng tốt – nhiệt tâm cởi mở; tầm nhìn tốt – nhìn về tương lai; con đường tốt – Bồ đề chánh đạo, đây chính là “long huyệt” tốt đẹp nhất, cao vời nhất của nội tâm bên trong.

Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Đại sư Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 83- 86.

Lý Thuyết Xem Tứ Trụ Về Hôn Nhân

1 – Nhật đóng ở đào hoa là vợ chồng đều đẹp, phong lưu, tài nghệ.

2 – Thương quan bị thương tổn nặng, có hợp là lấy vợ, lấy chồng không cần cưới.

3 – Thất sát bị chế ngự lại được tam tài là cao sang tột bực.

4 – Thực thần đơn độc là cuộc sống yêu hòa, có con, thọ.

5 – Trụ ngày tương sinh cho nhau là vợ chồng đằm thắm, can sinh chi là chồng yêu vợ, chi sinh can là vợ yêu chông.

6 – Ðông kim đóng ở cục là vợ chồng đều có ý chí, tiếng thơm bay xa.

7 – Hợp quý tài là nhà đầy châu báu. Tỉ trước tài là nghèo trước giàu sau.

8 – Thiên đức, nguyệt đức không bị những cái khắc làm nhiễu loạn thì người đó áo gấm mũ vàng.

9 – Vợ chồng trụ năm tương sinh hoặc thiên hợp địa hợp thì bách niên giai lão.

10 – Thực thần sinh vượng muốn có con phải cầu tự.

11 – Nạp âm trên khắc dưới là có phúc, dưới khắc trên thì không nên.

12 – Nhật đóng ở trường sinh thì lấy được vợ đẹp.

13 – Nhật nguyên bính tí là nam lấy vợ đẹp, nữ gặp chồng đẹp .

14 – Nam nhật nguyên mậu ngọ là được các cô thích, nữ nhật nguyên mậu ngọ là được các bạn trai ưa.

15 – Nhật đóng ở tài kho là giàu.

16 – Bảy ngôi trong Tứ trụ đều được tương sinh là vợ chồng bách niên giai lão.

17 – Tài vượng sinh quan là vợ chồng quấn quít với nhau, chồng xướng vợ tuỳ.

6 – Trong Tứ trụ có kiếp tài, kình dương là khắc cha, làm tổn thương vợ, hoa tán của cải.

7 – Thân vượng nhưng không có chỗ dựa là tổn thương vợ.

8 – Nếu gặp thìn, tuất, sửu mùi nhiều là khắc vợ.

9 – Tài, quan đều rơi vào tuần không, vong là tuổi trung niên mất con, khắc vợ, phải đi nơi khác kiếm ăn.

10 – Thê gặp thê là có 2 lần hôn nhân.

11 – Sao thê mất lệnh là ly hôn giữa chừng.

12 – Tứ trụ không có tài là người đi theo tăng đạo, khó có vợ, có con.

13 – Trụ ngày không có tài là xa lìa vợ.

14 – Hoả mạnh, thổ khô thì thân cô đơn, vợ khỏe thì mình ốm.

15 – Thân đóng ở ngang vai ( anh em) để thành cục là mấy lần làm chủ rể.

16 – Cung thê hợp thành cục để khắc mình là vợ nhưng khó giữ được vợ.

17 – Cung thê bị hỉ thần xung thì tuy vợ đẹp nhưng khó bách niên giai lão.

18 – Lệnh tháng, tài đóng ở tuyệt địa thì vợ nội trợ kém.

19 – Gặp cả kình dương và kiếp tài thì phải lấy vợ lần nữa.

20 – Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thìn tuất tương xung là vừa có vợ lẽ, vừa nằm không.

21 – Kình dương đóng ở trụ ngày thì vợkhông hiền và hao tài.

22 – Tài yếu mà gặp kiếp là ba vợ mà vẫn vất vả.

23 – Trụ ngày đóng ở thực thần lại còn gặp kiêu vợ là vợ thấp, người gầy ốm.

24 – Trụ ngày phạm hoa cái là khắc vợ.

25 – Vong thần, thất sát là con, hình phạt là vợ.

26 – Trong Tứ trụ giáp ất bính đinh liền nhau là không có lợi cho vợ.

27 – Tài yếu, thân vượng, tỉ kiếp nhiều là khắc vợ liên miên.

28 – Tài phục dưới chi là vợ lẽ hoặc tì thiếp.

29 – Thiên tài trên trụ giờ gặp tỉ kiếp là vừa phá tổ nghiệp vừa làm tổn thương vợ.

30 – Tài tinh đã bị tỉ kiếp, tuế vận lại còn gặp tỉ kiếp thì năm đó nếu không bị tổn thương tài, phá tài cũng sẽ bị kiện tụng.

31 – Thất sát, kình dương trên trụ ngày, trụ giờ gặp kiêu thần là giữa đường gặp tổn thất.

32 – Tài ở tử tuyệt mộ địa thì suốt đời phiêu bạt.

33 – Trạch mã đóng ở trụ ngày là vợ nhiều bệnh hoặc lười biếng.

34 – Trụ năm, trụ ngày cùng ngôi thì lấy vợ cùng tuổi mới đỡ bị khắc.

35 – Trụ ngày rơi vào hình địa là vợ nhiều bệnh.

36 – Trụ ngày đóng ở mộc dục thì vợ đẹp nhưng khó tránh khỏi cãi vã.

37 – Tài, ấn đều bị thương tổn là người khắc vợ, hại mẹ.

38 – Trong Tứ trụ tài đóng ở cung khác là lấy nghĩa nữ làm vợ.

39 – Trong Tứ trụ thương, kiêu đều có là con yếu, vợ ngu.

40 – Tài tuyệt ở cung tù là muộn vợ, muộn con.

41 – Tài thịnh lại gặp nhiều tỉ kiếp thì đề phòng cướp vợ em.

42 – Trụ ngày gặp thất sát là chủ về vợ hung bạo, sát chồng.

43 – Can ngày vượng, chi ngày là kình dương thì khắc vợ hoặc vì vợ mà phá sản.

44 – Can ngày yếu, tài tinh nhiều là vợ không tuân phục chồng.

45 – Ngang vai hợp với chính tài là vợ đoan trang nghiêm túc.

46 – Tài tinh gặp tỉ kiếp lại không được cứu trợ thì đề phòng vợ gặp tai ương mà chết.

47 – Chi ngày là thất sát, thiên ấn là vợ cả, vợ lẽ bất hòa.

48 – Tỉ kiếp, nguyệt kiến vượng là tuổi trẻ đã chết vợ.

49 – Tỉ kiếp, kình dương gặp hình, thương là chết trong chốn trần ai.

50 – Tứ trụ gặp cả suy và tử là đến già vẫn sống cô đơn.

1 – Can chi của ngày giống nhau là hao tổn tài, không lợi cho vợ chồng.

2 – Chi ngày gặp hình hoặc bị xung khắc là nam không lợi cho vợ, nữ không lợi cho chồng.

3 – Trụ ngày bị thương quan là vợ chồng không hòa thuận nhau, mình hay bị đối phương chửi.

4 – Nam gặp thương quan là có kết hôn hai lần, nữ gặp thương quan là có tái giá.

5 – Ngày lệch âm, dương là không có lợi cho hôn nhân, nam nữ gặp phải như thế tất sẽ phải tái hôn. Ví dụ : bính tí, kỉ sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi.

6 – Nam gặp tỉ kiếp tất sẽ tranh vợ, nữ gặp tỉ kiếp sẽ tranh chồng.

7 – Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ nội trợ tốt nhưng không hòa thuận.

8 – Trong người thuần dương thì nam mất vợ, thuần âm thì nữ mất chồng.

9 – Ngày giờ đối xung nhau thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con.

10 – Nam gặp kình dương thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con. Nam gặp kình dương là lấy vợ hai lần, nữ gặp kình dương tất sẽ tái giá.

11 – Cung thê bị khắc là không lấy chồng sớm, cung phu có khắc thì lấy vợ muộn.

12 – Nếu mã phục ở dưới ngang vai ( anh em) thì vợ chồng lấy nhau không giá thú.

13 – Thất sát đóng ở trụ ngày thì vợ chồng bất hòa, không chia tay nhau sẽ gặp điều xấu.

14 – Trụ năm của vợ hoặc chồng gặp thiên khắc, địa xung thì dễ có nỗi buồn sinh tử biệt ly.

15 – Nhật phá, nguyệt xung thì không lợi cho ly hôn.

16 – Nam hoặc nữ gặp ngang vai nhiều thì hôn nhân muộn, nhưng nếu thân ở vượng địa thì lại là tảo hôn.

17 – Quan sát hỗn tạp, thương quan nhiều, nếu nam gặp phải là người ham mê tửu sắc, nữ gặp phải là người theo trai.

18 – Chính tài, thiên tài nhiều là người háo sắc, chơi bời, vợ chồng bất hoà.

19 – Nam ấn nhiều thì khắc vợ, nữ ấn nhiều thì dâm loạn.

20 – Trong Tứ trụ có phu tinh, thê tinh hợp nhau là cuối cùng có sự ly biệt.

21 – Giáp thìn, giáp tuất, nam gặp phải hai ngày đó là khắc vợ, nữ gặp hai ngày đó là khắc chồng.

22 – Nam hợp là chủ về tốt, nữ hợp là chủ về dâm.

23 – Gặp phải vận thương quan là nam khắc vợ, nữ khắc chồng gặp phải tuế quân bị khắc phải đề phòng vợ chồng đều bị tổn thương.

24 – Cô loan nhập mệnh là chồng khóc vợ, hoặc vợ khắc chồng.

25 – Nếu tháng sinh gặp hàm trì thì vợ chồng đều có ngoại tình.

6. MỆNH NỮ KHÔNG HỢP CHỒNG CON

Tâm Sự Bị Yểm Bùa Và Hành Trình Hóa Giải Yểm Bùa

Bùa Ngải là 1 chủ thể bất kỳ ( có thể là 1 tấm giấy, 1 hình nộm, 1 búp bê, 1 vật bất kỳ…)được. là phép thuật thần thông, gọi tắt là huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có huyền thuật. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất vẫn có thể kể đến các dòng Nam Tông (Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar, Campuchia…), dòng Tiên Đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh thế yếu nhưng trước đây dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau như bây giờ. Huyền thuật không phân biệt chánh tà, chỉ có người sử dụng huyền thuật vào mục đích tốt hay xấu mà thôi. Ngày nay, người ta bất chấp sử dụng bùa ngải để trù yếm, hại người, rồi thành ra hại mình. chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc hành trình chữa bùa ngải của một độc giả. Và chia sẻ phương pháp chữa bùa ngải vô cùng hữu hiệu, không khó nhưng cần kiên trì, nhất tâm.

2. Câu Chuyện của chị D bị yểm bùa như thế nào, và hành trình hóa giải bùa ngải của gia đình chị D.

Vào năm 2014, Chị D ở Vĩnh Phúc tình cờ được một người bạn giới thiệu cách chữa bệnh bằng phương pháp Thiền, nhân đây do có người nhà mắc bệnh, chị D đã đưa người bạn về nhà và thực hành thiền chữa bệnh cho người nhà. Người nhà chị D hiện đang mắc tiểu đường, trước khi thực hành thiền chữa bệnh cho người nhà, chỉ số đường huyết giảm xuống từ 14 xuống còn 8. (!). Sau khi thấy sự kì diệu của phương pháp Thiền bí ẩn kia, chị D và người nhà đồng ý đi học khóa Thiền Chữa Bệnh của người bạn nọ.

Câu chuyện tiếp diễn, Hàng ngày chị D tham gia hội học thiền chưa bệnh ( hội kín). Chị mang đồ ăn tại đó về cho người nhà ăn, nhưng người nhà không ăn, chỉ có một mình chị D ăn, hàng ngày khi đi tập, chị thường xuyên ngửi hương, ăn uống những đồ ăn tại đó mà mãi về sau này chị mới tỉnh táo và kể lại được. Còn trong quá trình đi học thì không kể cho ai

Câu chuyện vẫn không có gì đáng nói, cho đến một ngày người nhà trong gia đình chị D bắt đầu thấy chị có những biểu hiện lạ: Ví dụ như hay gắt gỏng, mắng nhiếc chồng con ( mà cả nhà ai cũng sợ, nhưng lại không ai dám nói gì, giống như đang có một người khác trong cơ thể của chị), Chính bản thân chị D cũng tự nhận ra mình có những điều kỳ lạ, nhiều lúc nói xong rồi mới tự cảm thấy mình nói gì đó sai sai. Lúc này đây, sau khi lân la dò hỏi những người học tại đó chị mới biết mình đã tham gia một nhóm học tà đạo. Lúc này chị mới kể cho người nhà.

Từ hôm biết mình theo tà đạo, chị bắt đầu bỏ, không tham gia nhóm đó nữa. Đầu tiên chị bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, đau đớn không rõ nguyên nhân. Con chị đưa đi khám tại bệnh viện Bạch Mai thì bác sĩ bảo không bị làm sao. Cũng chỉ kê cho vài liều thuốc bổ, bác sĩ còn nói có thể do chị bị strees do suy nghĩ nhiều. Nhưng điều này thì không đúng vì bản thân chị không có vướng bận gì trong cuộc sống, gia đình giàu có, chồng con thành đạt, chị chỉ là bà nội trợ trong nhà chứ không có áp lực gì mà stress cả.

Con chị bắt đầu tìm hiểu và thấy dấu hiệu mẹ mình đang có dấu hiệu bị trúng bùa ngải. Cơ thể người chị luôn cảm thấy đau đớn như có kim đâm lâm râm, lâm râm. Con chị là A đã luộc trứng gà rồi lăn trên người cho chị, chị cũng cảm thấy đỡ đỡ một chút, sau khi bóc trứng ra thì thấy lòng đỏ đen sì. Lúc này chị và A hoảng hồn, mang vứt ngay ra sọt rác ( tuyệt đối không tiếc rẻ mà cho chó ăn, nếu không chó nhà bạn cũng sẽ bị yểm bùa). Tuy nhiên, cách này cũng chỉ giảm đau được 2,3 phần, còn lại 7,8 phần cơ thể vẫn đau nhức. A lại tiếp tục lên mạng đọc hết các cách hóa giải bùa ngải tại các nhóm hội, rồi website. Thấy có nói Lá Mùi ta chữa bùa ngải. Lại tiếp tục ra chợ mua Lá Mùi về xắc cho mẹ uống. Lúc này uống xong chị D thấy đỡ hẳn. Đi ngủ được. Đến ngày thứ 2, chị lại tiếp tục bị đau, A lại lăn trứng và cho chị uống lá mùi. Nhưng lần này có vẻ như cả 2 thứ đều không có tác dụng nữa vì cơn đau đã lên 1 mức độ mới. Ngoài những dấu hiệu bị đau người, gắt gỏng, đôi lúc khi nói chuyện, mắt chị D cứ hiêng hiếng, gườm gườm trông rất gian, đến nỗi con chị cũng phải sợ. Giống như có 1 con ma bên trong chị D.

Sau khi A tìm đủ mọi cách chữa trị cho mẹ như tắm nước gừng, lăn trứng, uống nước lá mùi ta, ăn rau mùi, …thì đều không có hiệu quả nữa. Lúc này A tình cờ xem được 1 video của thầy Thích Thiện Thuận, đầu óc A như bừng tỉnh, A bắt đầu nghĩ đến Phật Pháp. Cứ mỗi khi chị D đau, A lại tiếp tục bật Chú Đại Bi tiếng Phạn cho chị D nghe. Thật bất ngờ vô cùng, là sau khi bật lên chị D tự nhiên không còn cảm giác đau đớn, nó dứt sạch như chưa từng xảy ra.

Hành trình chữa trị yểm bùa của chị D không có gì đáng nói nếu chỉ dừng lại ở trên. Các cơn đau càng ngày càng dữ dội, và đặc biệt nhất nó không còn xảy ra 1, 2 lần trong ngày nữa mà tiếp diễn ở bất cứ nơi nào, có lúc đang đi xe máy, 2 tay tê buốt không điều khiển được phương tiện, chị đã phải cố hết sức dừng xe, tụng đọc liên tục Chú Đại Bi. Nhưng không còn hiệu nghiệm như lần đầu tiên, phải tụng đọc rất lâu mới đỡ đau. Đúng là Đạo cao 1 trượng, Ma Cao Một Tấc. Dần dần, chị bắt đầu học dần đến các chú, cho đến chú cuối cùng là Chú Lăng Nghiêm thì các cơn đau mới chính thức được dứt sạch. Chú Lăng Nghiêm quả thực rất khó nhớ. Câu chuyện kể ra chỉ trong vòng có mấy câu nhưng thực sự là một quá trình 3 năm tu học của chị D. Sau khi chữa trị bùa ngải bằng nhiều các phương pháp không đỡ. Chị mới tìm đến Phật Pháp. Lúc này chị phát nguyện Quy Y Tam Bảo, được các sư thầy hướng dẫn cách sám hối hàng ngày, hồi hướng cho các oan gia trái chủ, bản thân chị cũng là một phật tử siêng năng, hàng ngày Nghe giảng pháp, tụng kinh, sám hối. Cho đến khi tôi tình cờ gặp được chị và được nghe câu chuyện của chị thì chị vẫn đang trên hành trình tu đạo học phật.

Nghi Thức Trì Tụng Chú Đại Bi

Nghi Thức Trì Tụng Kinh Lăng Nghiêm

Chú Lăng Nghiêm

3. Cách chữa bùa ngải theo Đạo Phật

Nếu bạn tình cờ bị trúng bùa ngải, cách chữa trị không khó nhưng vô cùng gian nan, mất nhiều thời gian, tâm sức và sự kiên trì. Nếu vì đau đớn quá không chịu nổi nhiều người lại tìm các phương pháp này nọ, tốn kém mà không hiệu quả. Các bạn luôn nhớ, đức năng thắng trí, không ai thoát khỏi luật nhân quả. Giải điều ác phải dùng tâm thiện để giải, gieo nhân lành để hóa giải nghiệp ác. ( Không phải tự nhiên mình bị bỏ bùa đâu, cái này cũng là do nhân quả mà ra, kiếp trước có thể bạn phỉ báng tam bảo, coi thường Phật Pháp mà kiếp này bị yểm bùa). chúng tôi xin hướng dẫn bạn đọc cách tự chữa trị bùa ngải.

3.1. Cách 1 Có thể lên chùa nhờ các Sư Thầy giúp đỡ

3.2. Cách 2: Tự thực hiện

Đầu tiên Quy Y Tam Bảo, thọ trì 5 giới ( Quy Y tam bảo là nương nhờ vào Đức Phật gia hộ, để tu sửa bản thân, chứ không phải là cạo trọc đầu lên chùa ở, Có thể Quy Y tại Chùa gần nhà hoặc Chùa nào cũng được)

Hàng ngày tụng kinh niệm phật, Có thể tụng kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư, Kinh Chú Đại Bi,…

Làm việc thiện như : Cúng dường, công đức, phóng sanh, bố thí…Tâm nghĩ việc tốt, mồm nói việc hay, thân làm điều thiện.

” Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật tu hành không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia trái chủ đến gây phiền phức, làm ma chướng. Người không học phật, không biết hóa giải oán thù, vì vậy oan oan tương báo khổ không kham nổi. Người học Phật, đối với tất cả chúng sanh bất luận họ đến đòi nợ hoặc trả nợ đều khuyên họ niệm Phật, như vậy có thể chuyển tất cả thiện ác, oán thành pháp duyên, nhân tình thế gian cũng có thể chuyển thành pháp quyến thuộc tu hành mới được thành tựu.

Niệm Xong Thánh Hiệu, Vì Oan Gia Trái Chủ, Tụng Tâm Kinh Một Lần.

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha (3 lần)

Tụng Xong Tâm Kinh, vì oan gia trái chủ, tụng Chú Vãng Sanh 21 lần.

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ, Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng, tụng Tâm Kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài Viết Và Thuyết Giảng Audio: Giáo Lý Bùa Ngải trên website Duanseadragon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!